Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:33(Xem: 9463)
28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


Phẩm Trao Ký_QT

 

PHẨM “TRAO KÝ” (1)

Phần đầu quyển 427, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phần đầu phẩm “Nhiếp Thọ”, tức cuối Q.99

cho đến hết Q.100, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước


 


 

 

Gợi ý:

Phẩm “Trao Ký” của hội thứ II, ĐBN, tương đương với phẩm “Tam Thán” của Kinh MHBNBLMĐ. Hai phẩm rất đồng nhau.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ trong chúng, chư Thiên cõi Dục như Thiên Đế Thích… chư Thiên cõi Sắc như Phạm Thiên Vương… và các Thiên nữ, Thần Tiên Y xá na(1) đồng thời ba phen khen ngợi cụ thọ Thiện Hiện: Tôn giả Thiện Hiện dùng oai lực Phật làm chỗ nương, khéo vì chúng con phân biệt khai thị Bát Nhã thậm thâm. Phật xuất hiện thế gian là do pháp yếu Vô thượng. Nếu Bồ Tát năng đối kinh Bát Nhã thậm thâm, như thuyết tu hành, chẳng xa lìa ấy, chúng con đối với các Bồ Tát ấy tôn thờ như Phật. Vì sao? Vì trong Bát Nhã đây không pháp khá được. Chỗ gọi trong đây không sắc khá được, không thọ tưởng hành thức khá được. Như vậy cho đến không Nhất thiết trí khá được; không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá được. Tuy không có các pháp như thế để được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa là Thanh văn, Độc giáo, Vô thượng thừa.

Bấy giờ, Phật bảo các chư thiên rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói. Đối với Bát Nhã, tuy không có các pháp như sắc… khá được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa. Nếu Bồ Tát đối Bát Nhã đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, năng như thuyết tu hành, chẳng xa lìa, chư thiên các ngươi nên tôn thờ như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì Bát Nhã, tuy có Thánh giáo Tam thừa song nói chẳng tức bố thí Ba la mật Như Lai khá được, chẳng ly bố thí Ba la mật Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức Bát Nhã Như Lai khá được, chẳng ly Bát Nhã Như Lai khá được. Chẳng tức nội không Như Lai khá được, chẳng ly nội không Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức vô tánh tự tánh không Như Lai khá được, chẳng ly vô tánh tự tánh không Như Lai khá được. Chẳng tức bốn niệm trụ Như Lai khá được, chẳng ly bốn niệm trụ Như Lai khá được. Nói rộng cho đến chẳng tức mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được, chẳng ly mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được. Như vậy cho đến chẳng tức Nhất thiết trí Như Lai khá được, chẳng ly Nhất thiết trí Như Lai khá được. Chẳng tức Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được; chẳng ly Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được.

Các chư thiên! Nếu Bồ Tát Ma ha tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tinh siêng tu học bố thí Ba la mật như thế, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, Bồ Tát này đối Bát nhã Ba la mật đây, năng siêng tu hành thường chẳng lìa bỏ. Vậy nên các ngươi cần phải tôn thờ Bồ Tát này như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các chư thiên! Phải biết Ta ở thời Phật Nhiên Đăng thuở xa xưa, nơi thành Chúng Hoa, đầu ngã tư đường, thấy Phật Nhiên Đăng hiến năm hoa sen, trải tóc che bùn, cầu nghe pháp thượng diệu. Vì Ta lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên chẳng lìa bố thí Ba la mật cho đến Bát Nhã; chẳng lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng lìa 4 niệm trụ cho đến 8 Thánh đạo chi; chẳng lìa 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 vô sắc định; chẳng lìa tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; chẳng lìa Phật mười lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; chẳng lìa vô lượng, vô số, vô biên các Phật pháp khác. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền trao ký Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ đề cho Ta, và nói: “Thiện nam tử! Ngươi ở đời sau qua vô số kiếp, tức ở cõi đây trong thời Hiền kiếp sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuyên nói Bát Nhã cho vô lượng chúng”.

Khi ấy, các chư thiên đều thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Hiếm có. Bạch Thiện Thệ! Hiếm có. Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có. Khiến chúng Bồ Tát chóng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối tất cả sắc không lấy không bỏ, đối thọ tưởng hành thức không lấy không bỏ. Cho đến đối Nhất thiết trí không lấy không bỏ; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không lấy không bỏ.

Bấy giờ, Phật thấy bốn chúng hòa hợp là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ và các Bồ Tát, cùng Bốn đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến nhóm hội, đồng làm minh chứng. Lúc ấy Phật nhìn Thiên Đế Thích phán rằng:

- Kiều Thi Ca! Hoặc Bồ Tát, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, hoặc các Thiên tử, Thiên nữ, hoặc các thiện nam, thiện nữ… chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây cung kính lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói, rộng khiến lưu bố. Phải biết hạng này, tất cả ác ma và quân ác ma chẳng nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ này khéo trụ sắc không, vô tướng, vô nguyện; khéo trụ thọ tưởng hành thức không, vô tướng, vô nguyện. Như vậy cho đến khéo trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không, vô tướng, vô nguyện. Chẳng thể đem không để phá hại không, chẳng thể đem vô tướng phá hại vô tướng, chẳng thể đem vô nguyện phá hại vô nguyện. Vì sao? Các pháp như thế đều không tự tánh, năng sở phá hại đều chẳng khá được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ, người phi người chẳng bị nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này đem vô sở đắc làm phương tiện, đối các hữu tình khéo tu tâm từ bi hỷ xả vậy. Các thiện nam, thiện nữ này trọn chẳng bị các hiểm nguy làm não hại, cũng chẳng bị hoạnh tử. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tu hành bố thí Ba la mật, chính đem an lạc lợi dưỡng ban cho tất cả hữu tình vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở Tam thiên đại thiên thế giới đây có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Quảng quả, kẻ đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, đối Bát nhã Ba la mật đây, nếu chưa lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thời chẳng nên lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát Nhã đây, hết lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý.

Bấy giờ, ở Tam thiên đại thiên thế giới Kham Nhẫn này có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh… cung kính chấp tay đồng thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, thường năng đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Chư thiên chúng con thường theo bảo hộ chẳng để cho tất cả tai hoạnh não hại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các thiện nam thiện nữ này tức là đại Bồ Tát vậy.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, dược xoa, rồng thảy lìa hẳn tất cả khổ hoạnh, tật dịch, bần cùng, đói khát, lạnh nóng. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, A tu la thảy lìa hẳn các sự việc bất như ý; ở nơi chỗ nào không có chiến tranh, tất cả hữu tình thương mến lẫn nhau. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, hoặc bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không, hoặc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cho đến hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, các tiểu Quốc vương, chuyển luân Thánh vương, phụ thần quan liêu giúp nước. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng cho đến trời sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Dự lưu và quả Dự lưu, cho đến A la hán và quả A la hán, hoặc Độc giác và Độc giác Bồ đề. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các Bồ Tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Phật bảo, Pháp bảo, Bí sô Tăng bảo, lợi ích an vui tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên đây, Thiên chúng chúng con và A tu la, các rồng, dược xoa cùng người, phi người… có thế lực lớn, thường theo dõi cung kính bảo hộ các đại Bồ Tát đây, chẳng cho tất cả tai hoạnh não hại, khiến đối Bát nhã Ba la mật lóng nghe thọ trì, đọc tụng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích và các thiên, long, A tu la… rằng:

- Như vậy, như vậy. Như lời các ngươi đã nói. Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn ác thú, cho đến Tam Bảo xuất hiện thế gian cùng các hữu tình làm đại nhiêu ích. Vậy nên các ngươi chư thiên long thần và người, phi người có thế lực lớn, thường nên theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi nếu năng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, cần bảo hộ các Bồ Tát này, phải biết tức là cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Ta và 10 phương tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên các ngươi thường nên theo dõi Bồ Tát này, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ chớ được nới bỏ.

Các ông nên biết: Giả sử Tam thiên đại thiên thế giới chư Phật đầy rẫy Thanh văn, Độc giác nhiều như mía, lau, lách, tre, rừng, lúa, mè, lùm, bụi… không trống hở, có các thiện nam, thiện nữ đối với ruộng phước kia, đem vô lượng các th vi diệu nhất, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen trọn cả cuộc đời. Lại có người trong chừng giây lát cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen một Bồ Tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu Ba la mật. Đem công đức trước sánh nhóm phước sau trăm phần chẳng kịp một, ngàn phần chẳng kịp một. Vì sao? Vì chẳng do Thanh văn và Độc giác nên có Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác xuất hiện ở đời, nhưng do Bồ Tát nên thế gian mới có Thanh văn, Độc giác và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên, các ngươi tất cả thiên, long và A tu la, người, phi người… thường nên thủ hộ cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi do đây sẽ được nhóm phước ở trong người trời thường được an vui. Cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phước đã được đây hằng không dứt diệt.

 

Thích nghĩa:

 (1). Y xá na: Chư thiên trong cõi trời Dục giới thứ sáu.

 

Sơ giải:

 

Đức Thế Tôn thuật lại việc Thế Tôn lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát Nhã cùng vô lượng vô biên các pháp Phật khác, nên được Phật Nhiên Đăng trao ký tại thành Chúng Hoa. Đối với các Bồ Tát siêng tu tập tất cả các thiện pháp nhất là lục Ba la mật, lóng nghe, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn. Thế Tôn sẽ trao ký cho những Bồ Tát nào cũng hướng đến Nhất thiết chủng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật. Đồng thời Thế Tôn nhắn nhủ tất cả Thiên chúng, A tu la, các rồng, dược xoa, trời người, phi người thường theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ các Bồ Tát này, như bảo hộ Thế Tôn.

Các Bồ Tát này là ruộng phước của tất cả trời người… Vì sao? Vì nhờ có Bồ Tát này mà thế gian có nhiều phúc lợi. Nhờ Bồ Tát này mà có tất cả thiện pháp xuất hiện trên thế gian, có các dòng đại tộc, có các Thanh văn, Độc giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác… Vì các duyên cớ đó, Thế Tôn trao ký. Các thiên chúng trời, rồng, A tu la v.v… nên theo dõi và bảo hộ các đại Bồ Tát thọ trì Kinh này.

 

Phẩm này ai đọc cũng có thể hiểu, nên không cần giải thích dong dài. Trong Đại trí Độ Luận có một đoạn nói về Bát nhã Ba la mật rất đáng lưu ý. Nên trích ra đây để cùng học:

“Kinh nói: Nếu trong đại thiên thế giới, có vị Thiên Tử nào đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mà chưa nghe Bát Nhã Ba La Mật, thì nay phải nghe, phải thọ trì, phải chánh ức niệm, phải tu tập, thì mới có được đại công đức.

Lời kinh trên đây cho thấy rằng, khi đã phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm, thì phải nghe, phải thọ trì Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, thì mới vào được Phật đạo. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là nền tảng của Phật đạo vậy”./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 18218)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Tuy nhiên, từ khi tổ Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Hoa (vào khoảng năm 520) cho đến lúc Thiền tông Trung Hoa thực sự phát triển hưng thịnh, đã phải mất gần hai thế kỷ, truyền qua năm đời tổ sư, cho đến vị tổ thứ sáu là Huệ Năng (638 - 713) thì Thiền tông mới thực sự trở thành một trong những tông phái mạnh nhất của Phật giáo Trung Hoa. Với sự hoằng hóa của Lục tổ Huệ Năng ở đất Tào Khê, Thiền tông đã lan rộng ra khắp nơi và không bao lâu đã phát triển thành 5 tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Quả đúng như bài kệ nổi tiếng được cho là do tổ Đạt-ma truyền lại:
17/08/2014(Xem: 27562)
Tập sách mỏng này được hình thành từ một ý tưởng sáng tạo khá độc đáo của các tác giả. Nội dung chính của tập sách dựa vào hai bản kinh: Phụ mẫu ân nan báo kinh và Thi-ca-la-việt lục phương lễ kinh. Tuy nhiên, đây không chỉ là bản dịch tiếng Việt của những kinh này, mà các tác giả đã dựa vào đây để truyền đạt lại nội dung theo phong cách kể chuyện, với lối văn giản dị và trong sáng, dễ hiểu. Bằng cách này, chắc chắn những nội dung truyền đạt nơi đây sẽ trở nên gần gũi, dễ nắm bắt hơn đối với các bạn trẻ, là đối tượng chính yếu của tập sách.
17/08/2014(Xem: 24237)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 19369)
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba cái nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt nam ta từ xưa. Nho giáo dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật, khiến ta biết đường ăn ở cho phải đạo làm người. Đạo giáo lấy đạo làm chủ tể cả vũ trụ và dạy ta nên lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng. Phật giáo dạy ta biết cuộc đời là khổ não, đưa ta đi vào con đường giải thoát, ra ngoài cuộc ảo hóa điên đảo mà vào chỗ Niết-bàn yên vui.
17/08/2014(Xem: 14944)
Phát tâm Bồ Đề - Đạt Lai Lạt Ma; Việt dịch: Phan Châu Pha - Tiểu Nhỏ
17/08/2014(Xem: 21354)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
17/08/2014(Xem: 14092)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ đã quên mất cả nguyên văn: Chàng như mây mùa thu Thiếp như khói trong lò Cao thấp tuy có khác Một thả cũng tuyệt mù Đọc lại bài thơ rất nhỏ, từng chữ, từng vần. Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi trong tôi, về bài thơ, rớt lại chỉ còn một chút buâng khuâng không tên thì tôi lặng thinh đi vào cái buâng khuâng đó. Quanh một chữ. Tuyệt mù. Nghĩ đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng chim, nước không lưu giữ. Chim đâu lưu giữ lại đường bay? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và kệ. *
17/08/2014(Xem: 16896)
Tôi rất vui mừng được giới thiệu cùng quý vị độc giả tập sách này - được trình bày song ngữ Anh-Việt - như một cầu nối giữa tri thức khoa học phương Tây và trí tuệ trực giác phương Đông, điều mà tôi vẫn luôn cho là một trong những thành tựu đáng kể nhất của nhân loại vào đầu thiên niên kỷ này. Trong nguyên tác, đây là những ghi nhận từ một cuộc phỏng vấn mà đức Đạt-lai Lạt-ma đã dành cho học giả Mike Austin. Nhan đề tiếng Việt của sách và tiêu đề của một số chương là do chúng tôi tự đặt để giúp độc giả tiện theo dõi nội dung từng phần. Tuy nhiên, để tránh sự ngộ nhận, chúng tôi đã không đặt thêm các tiêu đề tiếng Anh tương ứng.
17/08/2014(Xem: 18841)
Chúng con xin trân trọng giới thiệu bộ sách ĐỐ VUI PHẬT PHÁP đến cùng chư vị với tâm nguyện góp một phần nhỏ vào việc chia sẻ những lời Phật dạy cho lớp trẻ hôm nay. Cuốn sách được hình thành từ năm 2001, khi chúng con thử nghiệm tổ chức những lớp học Phật pháp cho các em thiếu nhi ở những vùng sâu, vùng xa của các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Long An... Khi ấy, vì thiếu thốn giáo trình dành cho thiếu nhi, chúng con đành mạo muội tự biên soạn để có cơ sở giảng dạy. Tài liệu tham khảo lấy từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu dựa vào bộ Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Vừa làm, vừa áp dụng vào thực tế, chúng con đã rút kinh nghiệm chỉnh sửa dần dần. Đến nay, đã thử nghiệm giảng dạy cho hàng nghìn em, nhận thấy tương đối phù hợp và đạt hiệu quả tốt nên chúng con mới dám xuất bản một cách chính thức, mong sẽ hỗ trợ cho những ai có nhu cầu học Phật có thêm một tài liệu để tham khảo.
17/08/2014(Xem: 12350)
Văn hóa ẩm thực có từ lâu đời. Việc ăn chay được Phật giáo truyền bá và phát triển từ tinh thần từ bi, hình thành một số nét văn hóa trong việc ăn chay với nhiều nét đặc sắc, trong đó Văn hóa Thiền - Trà từ sự kết hợp giữa ý nghĩa của việc thưởng trà và những điều tinh yếu của Đạo Phật. Trà và Thiền có nhiều nét tương đồng nên sự kết hợp của chúng đã hình thành một hình thức sinh hoạt tao nhã trong ẩm thực Phật giáo: Những tách trà Thiền. Đó cũng là lý do ra đời của tập sáchThiền trà và Ăn chay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]