Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 04: Giới Đàn Tăng

19/02/201918:17(Xem: 3442)
Phần 04: Giới Đàn Tăng

GIỚI ĐÀN TĂNG 

Soạn dịch: H.T THÍCH THIỆN HÒA

(Nguyên bản chữ Hán)

PHẦN 4

PHÉP THỌ RA NGOÀI GIỚI

NỬA THÁNG HOẶC MỘT THÁNG

---

 

            Khi bấy giờ các Tỳ Kheo có nhân duyên như trước, muốn ra ngoài giới, đường xa không thể 7 ngày trở về kịp, đem việc ấy bạch Phật – Phật nói:  Cho có việc như thế, thọ phép quá 7 ngày (hoặc 15 ngày, hoặc một tháng) nên bạch nhị Yết ma mà đi.

            Sau khi tiểu thực xong, ra giữa chúng bạch xin:

            Nam mô A Di Đà Phật, Bạch trên Thượng tọa, Đại đức Tăng, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch.                                                                                    

 (Lễ 1 lễ quỳ bạch):

Nam mô A Di Đà Phật, Bạch trên Thượng tọa, Đại đức Tăng, chúng con (tên là thế) có duyên Tam bảo sự (…) xin ra ngoài giới 7 hôm, công việc xong trở về nội giới an cư tu tập, xin trên Thượng tọa, chư Đại đức Tăng từ bi tác chứng cho.

 

            Vị Duy Na thỉnh 4 vị Tỳ Kheo lên chùa làm phép Yết ma.

            Bốn vị lễ 3 lễ, rồi chia ngồi hai bên.

           

            Họp Tăng hỏi hòa:

Hỏi :  Tăng họp chưa?

Đáp : Tăng đã họp.

Hỏi :  Hòa hợp không?

Đáp :  Hòa hợp.

Hỏi :  Người chưa thọ giới Cụ Túc ra chưa?

Đáp :  Đã ra.

Hỏi :  Tăng nay hòa hợp để làm gì?

Đáp : Thọ nhựt Yết ma.

            (Khi hỏi hòa xong vị thọ nhựt lễ một lễ, bày bạch nhân duyên):

Nam mô A Di Đà Phật, Bạch trên Thượng tọa, Đại đức Tăng, con Tỳ Kheo(tên là thế) có duyên Tam bảo sự (…) xin ra ngoài giới 15 ngày, công việc xong trở về nội giới cùng chúng an cư tu tập. Xin Đại đức Tăng chứng minh cho.

(Bạch xong, lễ 1 lễ, lui đứng một bên).

 

Vị làm Yết ma đánh ba tiếng chuông bạch:

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, Tỳ Kheo… có duyên Tam Bảo sự xin thọ pháp quá 7 ngày (15 ngày, một tháng) ra ngoài giới, công việc xong sẽ trở về trong đây an cư bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tỳ Kheo… có duyên Tam Bảo sự xin thọ pháp quá 7 ngày (15 ngày, một tháng)ra ngoài giới, công việc xong sẽ trở về trong đây an cư, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng cho Tỳ Kheo… thọ phép quá 7 ngày (15 ngày, một tháng) ra ngoài giới, công việc xong sẽ trở về trong đây an cư. Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

(3 tiếng chuông).

Bốn vị đứng dậy tụng:

- Ma ha Bát Nhã v.v…

- Thụ nhựt Yết ma công đức thù thắng hạnh v.v…

- Tam tự quy y.                                                                                                   (Lễ 3 lễ lui ra).

 

Đợi bạch Yết ma này rồi ra lễ tạ ba lễ mà đi, không được trở lại giới tràng, nếu lỡ, phải làm Yết ma lại.

Ba phép thọ nhựt trên, đều không có thông đêm (Chiều ngày cuối phải trở về nội giới không để gần sáng mới về) không đồng giới hạn luật khác.

Trong luật Tăng Kỳ: Tỳ Kheo Ni không phép thọ nhựt Yết ma: nếu có duyên cần thiết, khai cho từ 1 đến 7 ngày.

Khi công việc xong trở về nội giới giờ tiểu thực ra giữa chúng bạch:

A Di Đà Phật, bạch Thượng tọa chư Tăng, vừa rồi con có duyên sự… xin ra ngoài giới, hôm nay công việc đã xong, con trở về nội giới cùng chúng tu học, xin Thượng tọa, chư Tăng chứng minh cho.

Thượng tọa đáp: v.v…

PHÉP TỰ TỨ CÁC VIỆC LÀM

KHI GẦN MÃN HẠ

---

 

            Trong các chốn Tổ đình đến ngày 8 tháng 7 thì tạ pháp, sắm lễ: trà quả v.v… cúng dường Pháp Chủ., chúng học đồng nghỉ học luôn.

            Ngày 10, Thượng, Trung, Hạ tọa đều chấp tác: bao sái tôn tượng, chùi đèn, súc bình hoa, sửa lư hương, tảo sái phòng trù cho sạch, đừng để chúng Thường trụ phải nhọc phiền.

            Ngày 11, 12, 13 hành đạo lễ bái, bái tụng Dược Sư, khoảng hai giờ rưỡi chiều (Tụng một hồi 7 vị). Lễ Tam Thiên Phật, chia mỗi lần 10 vị lê, lễ trong 3 ngày cho xong.

 

PHÉP SÁM HỐI

NGÀY 14 LỄ CẦU SÁM HỐI

---

 

            Sớm mai ngày 14, sau khi tiểu thực xong vị Duy Na đứng dậy bạch:

 

            Nam mô A Di Đà Phật. Bạch trên Thượng tọa, chư Đại đức Tăng, theo lệ thường, trước ngày tự tứ có lễ cầu sám hối cho thanh tịnh. Vậy buổi sớm mai các vị hương đăng trải tòa trước điện, coi hương đèn cho đủ.

            Đến buổi chiều, khoảng 2 giờ rưỡi đánh kiền chùy họp Tăng tại trai đường, cùng lên chánh điện tác pháp sám hối. Xin trên Thượng tọa, chư Tăng liễu tri cho.

           

            Khi Tăng họp trai đường đủ rồi, hai vị chấp sự (Chánh na và Phó na). Vị Chánh na đánh khánh đi trước, vị Phó na bưng thủ lư hương đi sau, đến liêu thỉnh rước một vị Đại đức thượng tọa kham năng vì chúng làm sâm ma. Duy na lễ một lễ, quỳ bạch:

 

            Nam mô… Bạch trên Sư Cụ Thượng tọa, giờ đã đến, chúng con xin đầu thành đảnh lễ khiến thỉnh Sư Cụ Thượng tọa đăng điện đường tác pháp sám hối cho chúng con được trượng thừa công đức.

 ­

            Sư Cụ Thượng tọa hoan hỷ rồi… lễ một lễ đứng dậy, Chánh na tiếp đánh khánh đi trước, kế Phó na… dẫn vào điện đường, xướng lễ Phật như thường lệ, thỉnh Sư Cụ Thượng tọa thăng tòa.

            (Tòa đặt căn giữa một bên, để cho chư Tăng lễ sám ngay giữa Phật).

            Chúng chia ban mà ngồi. Vị thứ nhứt trong chúng, ra ban lễ một lễ, quỳ dài phát lồ, (xưng tội), nếu mình không phạm nên bạch:

 

            Bạch Đại đức, con ở trong các tội nặng đều không phạm, còn tất cả oai nghi vi tế, sợ có chỗ lỗi lầm mà không tự hay biết, cầu xin Đại đức từ bi chỉ thị cho, để cho chúng con tiện sám hối.

 

            (Đợi Sư Cụ Thượng tọa, tùy theo có lỗi, chỉ dạy rồi, lễ ba lễ đứng một bên. Như thế đợi mỗi vị lần lượt tác pháp rồi, lễ tạ ba lễ, về phòng).

            Ngày 15 tự tứ. – Sáng mai tiểu thực xong, 4 vị chức sự (Thượng tọa) đại diện lễ cầu Sư Cụ Thượng tọa làm phép tự tứ xong.

            Thầy Duy na bạch: Bạch Thượng tọa, chư Tăng, đúng 8 giờ con xin kích hiệu, thỉnh Thượng tọa, chư Tăng tề tựu trai đường để lên chùa tác pháp tự tứ.

 

            Khi đã lên chùa lễ tụng như thường, lễ Phật ba lễ, ngồi hai bên (Ngồi ngang nhau, tuổi hạ nhiều hơn thì ngồi trên). Thầy Duy na kiểm kỹ số chúng, bao nhiêu Tỳ Kheo, bao nhiêu Sa Di, bạch:

 

            Bạch trên Thượng tọa, chư Tăng, con thông kiểm số chúng, Tỳ Kheo có… vị, Sa Di có… vị, xin Thượng tọa, chư Tăng chứng minh cho.

           

            Cụ Thượng tọa bảo: Lẽ theo phép thì phải hành trù (chia thẻ) nhưng bạch như thế là thay cho phép hành trù rồi.

            (Cho Sa Di ra, khi nào Yết ma sai nhơn rồi kêu vào).

            Nên bạch nhị Yết ma sai người có năm đức:

1.      Không yêu riêng ai.

2.      Không giận.

3.      Không sợ (giữa chúng).

4.      Không si mê.

5.      Biết người tự tứ rồi, người chưa tự tứ, thọ tự tứ.

 

Họp Tăng vấn hòa:

Hỏi :  Tăng họp chưa?

Đáp : Tăng đã họp.

Hỏi :  Hòa hợp không?

Đáp :  Hòa hợp.

Hỏi :  Người chưa thọ giới Cụ Túc ra chưa?

Đáp :  Người chưa thọ giớ Cụ Túc đã ra.

(Nếu không có, liền nên đáp rằng):

- Trong đây không có người chưa thọ Đại giới.

            Hỏi :  Có các Tỳ Kheo khiếm diện, có thuyết dục và thanh tịnh không?

(Nếu có người thuyết dục, nên đáp rằng):

- Có người đến thuyết dục và thanh tịnh.

Vị thọ dục đứng dậy ra giữa lễ một lễ quỳ bạch:

Bạch Đại đức Tăng, con thọ dục và thanh tịnh Tỳ Kheo (A). Việc Tăng như pháp, con xin gởi dục và thanh tịnh.                                                                                                                  (1 lần).

 

Đại đức đáp: “Thiện”. Tự nói: “Nhĩ”. Môt lạy, đứng dậy trở lại tòa trước mà ngồi.

Giữ dục – thọ dục – thuyết dục có giải ở sau.

(Nếu không có người thuyết dục, nên đáp rằng):

- Trong đây không có người thuyết dục và thanh tịnh.

            Hỏi :  Có ai sai Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?

            Nếu có, thì Duy na đáp rằng:

            - Trong đây có Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới tự tứ.

            Duy na ra mời vào. (Pháp Ni bạch cầu tự tứ ở sau). Nếu không thì đáp rằng:

            - Trong đây không có Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới và sai người tự tứ.

Hỏi :  Tăng nay hòa hợp để làm gì?

Đáp :  Tự tứ yết ma.

(Tiền phương tiện xong).

Tiếp: - Đại đức Tăng nghe, ngày nay Tăng tự tứ, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, hòa hợp tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Hòa hợp Tăng rồi, chúng sai người tự tứ. Nếu chúng chỉ có năm người, thì sai một người, chúng đông thì sai hai ba vị, không được sai bốn, vì đủ số chúng vậy.

Thượng tọa sai:

Xin thỉnh Thượng tọa A thụ tự tứ.

A từ nói:

Ngã bất kham năng. Xin thỉnh Thượng tọa B, Thượng tọa C, hai vị có thể vì Tăng làm người thụ tự tứ không? Đáp:  Dạ được. (Vị nào từ thì thỉnh vị khác).

Phép sai nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng sai  Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng: Tăng đã bằng lòng sai Tỳ Kheo (tên là thế hai vị… ) làm người thọ tự tứ xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

Thượng tọa chịu sai, đã vâng mệnh tăng sai, ra quỳ giữa chấp tay bạch:

Đại đức Tăng nghe, ngày nay chúng Tăng tự tứ, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng hòa hợp tự tứ, bạch như thế, tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

(Bạch xong, đứng dậy lễ một lễ, trở về chỗ cũ, cho Sa Di vào. Tiếp theo pháp chính tự tứ).

Khi bạch tự tứ, cầu Thượng tọa ở trong ba tháng an cư, goặc có chỗ phạm mà không biết, đối với tội thấy, nghe, nghi, tha hồ để cho tăng bày chỉ lỗi mình, như pháp mà sám hối.

Đoạn này hôm qua cả chúng đã xưng tội sám hối rồi, nên hôm nay văn bạch tự tứ cầu chỉ lỗi, mà Thượng tọa chỉ đáp là: “Thiện” mà không còn chỉ lỗi nữa.

PHÉP CHÍNH TỰ TỨ

---

 

            Hai Thượng tọa đồng hàng chịu tự tứ, đồng lễ một lễ lẫn nhau làm tự tứ trước, rồi sẽ phân hai ban, để chúng bạch cho chóng. (Đặt hai bên, hai ghế ngồi ngay bên chánh điện).

            Nếu người tự tứ là Thượng tọa, người chịu tự tứ là Hạ tọa nên quỳ, vị Thượng tọa cũng quỳ bạch tự tứ mà không lễ.

 Nếu người tự tứ là Hạ tọa, người chịu tự tứ là Thượng tọa, thì Thượng tọa cứ ngồi, để cho Hạ tọa lễ tự tứ.

Theo thứ lớp, tuổi hạ nhiều hơn, bạch tự tứ trước, nên đến trước vị chịu tự tứ lễ một lễ, rồi quỳ xuống chấp tay bạch rằng: Bạch Đại đức, chúng Tăng ngày nay tự tứ, con Tỳ Kheo (là thế… ) cũng tự tứ nếu thấy tội, nghe tội, nghi có tội, xin Đại đức thương xót chỉ bảo cho con, nếu con thấy có tội, sẽ như pháp mà sám hối.

 

(Như thế ba lần bạch rồi, người chịu tự tứ nên đáp): “Thiện”.

Người tự tứ đáp rằng: “Nhĩ”.                                                                                          Lễ 1 lễ).

 

Người chịu tự tứ phải tự tứ trước, không được Tăng tự tứ rồi mới tự tứ.

Khi Tỳ Kheo tự tứ xong, kế Sa Di bạch tự tứ.

Đã suốt chịu tự tứ rồi, hai vị cùng ra giữi đứng bạch rằng:

 

A Di Đà Phật, Tăng nhứt  tâm tự từ kinh.

 

Cụ Thượng tọa đáp: “Thiện”

Tự nói rằng: “Nhĩ”.                                                                                                            (Vâng).

                                                                                                       

 Lễ một lễ rồi, chư Tăng cùng đứng dậy.

                  

- Tụng Ma ha Bát nhã…

Tự tứ công đức thù thắng hạnh v.v…

-Tam tự quy y.                                                                                                                   (Xong).

 

Đại chúng cùng ra lễ  Tổ.

(Một pháp tự tứ cũng gọi là Bồ Tát, cho nên ngày (15-7) không có thuyết giới)

PHÉP BỐN NGƯỜI TRỞ XUỐNG

LẦN LƯỢT TỰ TỨ

---

 

          Nếu trong giới bốn người, nên lần lượt đối thú mà tự tứ, không được thọ dục. Nên cùng họp một chỗ lễ Phật 3 lễ, rồi chia ra Thượng, Trung, Hạ tọa, trước một người lễ ba người, lễ một lễ, quỳ bạch tự tứ:

 

            Bạch Đại đức nhớ nghĩ, ngày nay chúng Tăng tự tứ, tôi Tỳ Kheo … thanh tịnh.

 

            Như thế ba lần nói rồi, người bị đối nên đáp: “Thiện”.        

            Mình nói rằng: “Nhĩ”.                                                                                   (Một lạy đứng dậy).

 

            Còn ba người, mỗi mỗi theo thứ tự lớp cũng bạch như thế. Nếu chỉ có ba người, nên bạch: “Nhị Đại đức”.

 

            Nếu có hai người đối nhau, thì bỏ chữ “Tam” và chữ “Nhị”, chỉ nói: “Đại đức”, còn các lời như trên không khác.

 

PHÉP MỘT NGƯỜI TÂM NIỆM

TỰ TỨ

---

 

            Nếu một người ở một mình, đến ngày tự tứ, không có khách Tỳ Kheo đến, nên ở trước Tam Bảo lễ ba lễ quỳ, tâm tưởng miệng nói: “Ngày nay chúng Tăng tự tứ, tôi Tỳ Kheo (là thế…) thanh tịnh.

            (Nói 3 lần, lễ 3 lễ).

 

PHÉP TU TIẾN HÀNH ĐẠO

THÊM NGÀY TỰ TỨ

---

 

            Phật bảo: Nếu có trụ xứ nào đông nhiều Tỳ Kheo kiết hạ an cư, tinh tiến hành đạo, được quả chứng tăng thượng, sợ tự tứ xong, dời đi chỗ khác không được như ý, liền nên tác bạch Tăng thêm ngày tự tứ.

           

            Phép tập Tăng vấn hòa, như nghi thường, nên đáp rằng: “Tăng tự tứ Yết ma”.

            (Người Yết ma nên bạch như thế này):

 

            Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng ngày nay không tự tứ, bốn tháng đủ sẽ tự tứ, bạch như thế (Liền nên hỏi rằng): Tác bạch có thành không?

 

            - Chúng đều đáp rằng:  “Thành”.

 

            (Bạch xong, vẫn ở tu đến hậu an cư, đủ ngày mới tự tứ).

PHÉP CHO CẠO TÓC THỌ GIỚI

---

 

            Phàm vì muốn người làm thầy trao giới, trước phải tự lượng, hẳn như lời Phật dạy, thành tựu giới, định, huệ, tinh thông nghĩa luật, khéo biết phép khai, phép giá, mới có thể dạy bảo đệ tử được. Lại phải cân lường người cầu xuất gia kia, nếu không có nạn duyên, không bị thế tục chê hiềm, không quá già, quá trẻ, cho vì cạo tóc thọ Tam quy ngũ giới. Thử coi kia có thể tu được không, mới được xuất gia, ngay trao cho Sa Di thập giới.

 

            Trong luật Tăng Kỳ nói: Nếu bảy tuổi hiểu biết việc tốt xấu, thì cho xuất gia; Người quá bảy mươi tuổi, không thể làm việc được, nằm xuống ngồi dậy cần phải có nhờ người, thì không được độ -Người  bảy mươi tuổi mà còn khẻo mạnh có thể tu tập các nghiệp, thì cho xuất gia. Người muốn xuất gia, nên vì nói các vị khổ:

1.      Ngày ăn một bữa, tương rau chay lạt đạm bạc cực khổ.

2.      Ngủ ít, thức khuya dậy sớm có thời khắc bó buộc.

3.      Học hỏi nhiều, không có thì giờ thong thả chơi rong.

Nếu đáp rằng: Có thể giữ được, sẽ độ.

 

Trong luật Ngũ Phận nói:

Khi độ người, nên trước hỏi rằng: Ông cầu vì việc gì mà xuất gia? Nếu nói vì cơm ăn áo mặc, thì không nên độ; nếu nói rằng:, vì học pháp lành, chán sanh, già, bịnh, chết cần tu giải thoát tử v.v… thì nên độ.

 

Trong luật Thập Tụng nói:

Rất nhỏ là 7 tuổi, có thể đuổi quạ trên bửa ăn nhà Tăng thì cho làm Sa Di.

 

PHÉP CHO CẠO TÓC

---

 

            Trong Bổn Luật về phần thọ giới nói: Có một vị đồng tử đến trong Tăng già lam cầu xin xuất gia, một Tỳ Kheo liền cho xuất gia, cha mẹ của đồng tử khóc lóc, đến hỏi các Tỳ Kheo rằng: Thưa các Ngài, có thấy trẻ con hình dáng như thế, như thế không?

            - Vị không thấy trả lời rằng: “Không thấy”. Cha mẹ đồng tử kia liền đi tìm trong các phòng, bèn chê hiềm nói rằng. Sa môn Thích tử không biết hổ thẹn, lại nói dối, đã độ trẻ con rồi, mà nói là không thấy.

            Khi bấy giờ các Tỳ Kheo đem việc ấy bạch Phật – Phật nói rằng, từ nay trở đi ở trong phòng Tăng già lam cạo tóc, nên bạch tất cả Tăng, nếu không được hòa hợp, mỗi phòng nên bảo cho biết rồi mới cho cạo tóc. Nếu Tăng hòa hợp làm đàn bạch yết ma rồi, song sau sẽ cho cạo tóc. Trong văn Yết ma lại nói rằng: Nếu muốn trong Tăng già lam độ cho xuất gia, nên bạch tất cả Tăng, làm văn đơn bạch yết ma rồi, cho xuất gia dạy mặc áo Ca sa, (hoại sắc, man y) thọ Tam quy Thập giới.

            (Có đàn tam quy – Có Tam quy Ngũ giới – Có Tam quy Thập giới – Có tam quy Bồ Tát giới).

            Trong luật Tăng Kỳ nói: Không cho chẳng bạch Tăng mà độ người xuất gia: bạch cạo tóc không bạch xuất gia, phạm tội Việt tỳ ni; nếu ra ngoài giới, một thầy một trò độ người không tội.

            Trong luật Ngũ Phận nói: Cho thọ năm giới rồi, sau mới cho thọ mười giới.

            Trong bộ Căn bản Thọ giới Nghi phạm nói: Cho cạo tóc rồi, người kia sau ăn năn, Phật bảo rằng: Nên để trên chỏm một ít tóc, hỏi rằng: Có cạo tóc trên đầu người không? Nếu nói rằng “cạo”, thì có thể cạo bỏ: nếu nói rằng không cạo, nên tùy ý khiến cho đi.

            Xem các văn luật, nếu có người xuất gia, nên trước bạch Tăng, rồi cho cạo tóc, chỉ để tóc trên chỏm, vì trao cho tam quy Ngũ giới, khiến làm tịnh nhơn, tu ngũ giới, hoặc ba năm, hoặc một năm, xem chí hướng tu hành coi thế nào, như hẳn tu, sâu tin Phật pháp, quyết chí xuất gia, không có nạn duyên khác, nhưng bạch với Tăng rồi mới cho xuất gia thọ Sa Di Thập giới, sau mới đăng đàn cho thọ Cụ Túc giới; trong đó phép bạch tùy xứ tùy người vẫn không nhứt định. Nếu ở một mình độ người, thì không có phép bạch. Như trong chùa 2, 3 người đồng ở, hoặc là nhiều người không được hòa hợp, chỉ nói cho biết chỗ chốn kiết giới, nên làm đàn bạch yết ma. Một người chấp sự (duy na) đưa người cầu xuất gia mỗi phòng lễ thỉnh rồi, nên trải tòa, đánh kiền chùy họp Tăng, các nghi đón thỉnh đều như trong thọ giới Nghi phạm, người Yết ma nên bạch như thế này:

 

            Đại đức Tăng nghe, chú (A) muốn cầu Tỳ Kheo… (P) cạo tóc, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, cho chú (A) cạo tóc, bạch như thế, (liền nên hỏi rằng): Tác bạch có thành không?

            - Chúng đều đáp rằng : “Thành”.

            Kiết toát hồi hướng – Tam tự quy y.

PHÉP CHO XUẤT GIA TRAO GIỚI SA DI

---

 

Nếu Cận sự nam (cận sự nữ) có lòng tin, quyết chí không dời đổi, tu năm giới như pháp, lại cầu khẩn xin cạo tóc độ cho xuất gia.

            Các nghi thức hòa hợp Tăng cũng như thường lệ. Người Yết ma bạch như thế này:

 

            Đại đức Tăng nghe, vị Ưu bà tắc (A) theo Tỳ Kheo (B) cầu xin xuất gia, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, cho (A) xuất gia, bạch như thế, (liền nên hỏi rằng): Tác bạch có thành không?

            - Chúng đều đáp rằng : “Thành”.

            Kiết toát hồi hướng – Tam tự quy y.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2573)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5723)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112929)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5871)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5925)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6505)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12202)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8401)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14581)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 24845)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567