Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 02: Giới Đàn Tăng

19/02/201918:15(Xem: 3831)
Phần 02: Giới Đàn Tăng

GIỚI ĐÀN TĂNG 

Soạn dịch: H.T THÍCH THIỆN HÒA

(Nguyên bản chữ Hán)

PHẦN 2

PHÉP BẠCH LỄ TẠ

---

 

            Sau khi truyền giới xong, một vị giới tử đứng ra đại bạch, còn ra sắp ở sau.

           

            Bạch: Nam mô A Di Đà Phật.

Bạch Giới sư chư Tôn Đại đức Tăng, Giới tử chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch.                                                                                            (Lễ xuống 1 lễ, quỳ bạch, rằng).

Nam mô A Di Đà Phật.  

Bạch Giới sư , giới tử chúng con không biết có phúc duyên gì, nay nhờ trên Hòa thượng Giới sư chư Tôn Đại đức Tăng, đã thùy từ lân mẫn đăng đàn truyền giao giới pháp cho chúng con, hôm nay giới thể đã được châu viên, chúng con không biết lấy chi đền đáp cho cân. Vậy chúng con xin nguyện suốt đời giữ giới pháp đã lãnh thọ cho được thanh tịnh và chúng con xin đê đầu bái tạ. Xin trên Hòa thượng Giới sư chư Tôn Đại đức Tăng,                                                                         từ bi chứng minh cho chúng con được trượng thừa công đức.

(Quỳ chấp tay, đợi Hòa thượng bảo).

Hòa thượng : A Di Đà Phật.  

Các giới tử có một lòng thành tín cần cầu giới pháp, hôm nay đã đủ duyên lành, được thọ giới, giới thể đã được châu viên, các vị ra đầu thành đảnh lễ bái tạ, quý Đại đức Tăng rất hoan hỷ. Vậy có mấy lời khuyên bảo các vị, từ hôm nay trở đi, các vị cố gắng mà giữ giới đã lãnh thọ cho được thanh tịnh. Do nhờ giữ giới mà tâm định, do tâm định mà phát sanh trí tuệ. Cho nên biết rằng, giới là đầu của ba môn học, là nền tảng của muôn pháp lành. Các bậc Thánh nhơn nhờ giữ giới mà chứng Bồ Đề, chư Phật cũng nhờ giữ giới mà thành Chánh Giác. Vậy các vị dù gặp phải nhân duyên mất mạng, vẫn một lòng bền giữ, không được trái phạm.

 

- Giới tử đáp: A Di Đà Phật. Trên Hòa thượng chư Tôn Đại đức Tăng, đã từ bi huấn thị và chứng minh cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường.                                     (Lễ 3 lễ).

 

 

VĂN PHỤC NGUYỆN

(Sau khi truyền giới xong)

---

 

            Phục nguyện, nhứt thời tuyên dương giới pháp, thượng căn đại ngộ, trung hạ thừa đương, liễu chứng vô sanh Thánh quả, bá vạn trần lao nhứt thời tiềm tiêu ư hải ngoại. Phổ nguyện, chư giới tử giới châu minh tịnh, đạo quả viên thành. Hiện tiền tu chứng vô sanh, một hậu siêu đăng Thánh vị.

            Thứ nguyện, âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tình giữ vô tình, tề thành Phật đạo.

            Nam mô A Di Đà Phật.

 

PHÉP KIẾT GIỚI TRÀNG VÀ ĐẠI GIỚI

---

 

DUYÊN

 

Khi bấy giờ các Tỳ Kheo việc Yết ma nhiều, đại chúng hội họp mỏi mệt, đem việc ấy bạch Phật. Phật cho kiết giới tràng, kể giới tướng bốn phương, hoặc đóng nọc, hoặc đặt đá làm chừng hạn. Trong luật Thiện Kiến nói: “Kết giới tràng rất nhỏ, dung được 21 người. Kết rồi, nếu sau có cất nhà che trên cũng không mất. Trong luật Ngũ Phận, các luật đều nói rằng: Cần phải kết giới tràng trước đại giới; nếu muốn tác pháp, phải giải đại giới trước rồi. (Nếu trước kia đã có kiết giới mà hẹp, nay muốn giới rộng thì giải) riêng đặt 3 lớp tướng nêu. (Mời một vị cựu trụ Tỳ Kheo ra ở trước, hỏi 3 lớp tiêu tướng), trong một lớp gọi là ngoài tướng giới tràng, khoảng giữa một lớp gọi là tướng trong đại giới, không nên làm hai giới liên tiếp nhau. Cần ở tướng ngoài giới tràng một vòng, đều cách chừng một hai thước, mời đặt tướng trong đại giới, rốt ngoài một lớp, gọi là tướng ngoài đại giới. Lập 3 lớp tướng nêu rồi, đánh kiền chùy hợp Tăng, đưa đại chúng xem tướng ngoài đại giới trước rồi, họp hết tướng trong giới tràng, vấn hòa mà kiết giới.

 

                Ngày kiết hạ, kiết giới xong, dán giấy 4 góc trên 2 lớp tiêu tướng. Vẽ bản đồ 3 lớp tiêu tướng cho chư Tăng biết.

 

            Trước niệm hương cầu Phật gia bị.

            Tán lư hương…

            Tụng Đại Bi…

            Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo.          (3 lần).

 

Ngồi họp Tăng vấn hòa:

Thượng tọa làm Yết ma hỏi:

- Tăng họp chưa?

- Duy Na đáp : Tăng đã họp.

- Hòa hợp không?

- Đã hòa hợp.

- Người chưa thọ giới Cụ Túc ra chưa?

- Đã ra.

- Tăng nay hòa hợp để làm gì?

- Kiết giới Yết ma.

 

Nếu làm Yết ma khác, phép hỏi cũng thế, chỉ thêm một câu hỏi “Thuyết dục”. Người đáp, nên theo chỗ làm việc mà đáp.

Đợi đáp xong, trong đây, Tỳ Kheo xướng tướng ra ban, đến đứng giữa, hướng lên bạch rằng: “A Di Đà Phật. Tôi Tỳ Kheo (là thế…) vì Tăng xướng giới tướng bốn phương của giới tràng”.

Bạch xong, một lạy, đứng dậy đến góc Đông Nam, đứng hướng vào giữa giới tràng, đại chúng đứng hướng về Đông Nam, Tỳ Kheo xướng tướng nên chấp tay bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, tôi Tỳ Kheo (là thế…) vì Tăng xướng giới tướng bốn phương của tiểu giới.

- Từ trụ xứ này, góc Đông Nam lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Đông Nam này đến góc Tây Nam lấy vật (là thế…) làm nêu.

(Nếu có chỗ cấn khuất, thì hướng xoay theo góc mà chỉ phương, vì đến tại góc không tiện).

- Từ góc Tây Nam này đến góc Tây Bắc lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Tây Bắc này đến góc Đông Bắc lấy vật (là thế…) làm nêu.

(Đây không cần nói quay về góc Đông Nam nữa, vì kế rồi).

Đây là tướng ngoài giới tràng, một vòng xong.                                                               (3 lần).

(Nếu có chỗ co uốn, tùy theo sự mà kể, đại chúng đều theo ngoài kia xoay theo ba lần xướng rồi, lễ một lễ trở về chỗ).

Trong chúng người làm yết ma bạch như thế này:

Bạch Đại đức Tăng, trụ xứ này, Tỳ Kheo kể tướng bốn phương của tiểu giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, Tăng nay ở trong tướng bốn phương của tiểu giới này, kết làm giới tràng, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Bạch Đại đức Tăng, trụ xứ này, Tỳ Kheo kể tướng bốn phương của tiểu giới, Tăng nay ở trong tướng bốn phương của tiểu giới này, kết làm giới tràng, Trưởng lão nào bằng lòng Tăng ở trong tướng bốn phương của tiểu giới, kết làm giới tràng thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng ở trong tướng bốn phương của tiểu giới này, kết làm giới tràng xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết. (Đánh 3 tiếng chuông). Khi hòa Tăng kiết giới nào xong rồi, cũng đều đồng thanh tụng:

- Kiết giới công đức v.v…

Bạch rồi cùng đến trong đại giới (ở nhà sau), nên họp Tăng lại vấn hòa, vì sao? – Vì nên giới đã khác. Tăng lại dời ra chỗ đại giới, không phải chỗ giới tràng, cho nên cần phải hỏi riêng.

Họp Tăng vấn hòa.

Thầy Yết ma hỏi:

- Tăng họp chưa?

Tăng đã họp.

- Hòa hợp không?

- Đã hòa hợp.

- Người chưa thọ giới Cụ Túc ra chưa?

- Đã ra.

- Tăng nay hòa hợp để làm gì?

- Kiết đại giới Yết ma.

(Hòa Tăng rồi, Tỳ Kheo xướng tướng, nên ra giữa đứng hướng vào, chấp tay bạch rằng):

Đại đức Tăng nghe, tôi Tỳ Kheo (là thế…) vì Tăng mà xướng tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới.

 

TRƯỚC XƯỚNG NỘI TƯỚNG

 

            - Từ ngoài tướng giới tràng góc Đông Nam, cách chừng hai thước (Tùy chỗ rộng hẹp mà kể, không hẹn lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Đông Nam này đến góc Tây Nam, lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Tây Nam này đến góc Tây Bắc, lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Tây Bắc này đến góc Đông Bắc, lấy vật (là thế…) làm nêu.

(Xướng 3 lần).

Trước đã xướng đại giới nội tướng. Bây giờ xướng đại giới ngoại tướng.

- Từ ngoài trụ xứ này đến góc Đông Nam, lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Đông Nam này đến góc Tây Nam, lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Tây Nam này đến góc Tây Bắc, lấy vật (là thế…) làm nêu.

- Từ góc Tây Bắc này đến góc Đông Nam, lấy vật (là thế…) làm nêu.

(Xướng 3 lần).

Đây là nội tướng (vừa nói, tay vừa chỉ… ) kia là ngoại tướng. Đây là tướng trong và tướng ngoài của đại giới, đã xướng xong. Lễ một lễ, trở về chỗ.

Xướng tướng trong và tướng ngoài của đại giới, không chạy theo hướng mà xướng, vì trước kia đã chỉ cho Tăng biết, Tăng đã xem, vì giới tràng ngăn cách và đại giới xa, nên ở một chỗ xa chỉ, mà đại chúng đều biết.

Y tướng kết giới rồi, sau dù mất tướng (đào đất chỗ đó) mà tướng không mất. Nếu chỗ co uốn, tùy theo sự mà kể.

 

THẦY YẾT MA NÊN BẠCH NHƯ THẾ NÀY

 

            Đại đức Tăng nghe, trụ xứ này, Tỳ Kheo kể tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới. Nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, Tăng nay kết tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới. Bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, trụ xứ này, Tỳ Kheo kể tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới. Tăng nay kể tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới; Trưởng lão nào bằng lòng Tăng kết tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng kết tướng trong và tướng ngoài bốn phương của đại giới xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.                                      (Tiếp kết giới bất thất y).

(Kết ba lớp giới xong rồi, đại chúng cùng lên chùa kiết toát hồi hướng).

 

TỤNG

 

            - Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh v.v…

            - Kiết giới công đức v.v…

            - Tam tự quy y…          (Xong).

 

PHÉP KIẾT GIỚI KHÔNG MẤT Y

---

 

            Khi kiết giới không mất y, trước hòa hợp Tăng, các nghi thức làm như trước, nên bạch như thế này:

 

            Đại đức Tăng nghe, chốn này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, Tăng nay kiết giới không mất y, trừ thôn (nhà) ngoài giới thôn (nhà bờ tre) ra, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng, ở chốn này, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, kiết giới không mất y, trừ nhà, ngoài giới nhà ra, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

 

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng chốn này, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, kiết giới không mất y, trừ nhà, ngoài giới nhà xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

Kiết giới y rồi, trong đại giới, y để một nơi ngủ một nơi được).

 

 

 

DUYÊN

 

Khi bấy giờ có Yểm Ly Tỳ Kheo thấy chốn vắng lặng có một cái hang tốt, tự nghĩ rằng: Nếu được lìa y, thì tôi ở ngay trong hang này, Phật nói: Nên kiết giới bất thất y. Các Tỳ Kheo theo lời Phật dạy, chế giới rồi, trong giới có nhà bạch y, các Tỳ Kheo ở trong đó khi mặc, cởi y trần hình. Phật nói : Khi kiết giới nên trừ nhà ra. Có năm ý nên trừ:

1.      Việc nạn.

2.      Giới nhứt định mà nhà không nhứt định.

3.      Dứt sự tranh cãi.

4.      Tránh chê hiềm.

5.      Giữ phạm hạnh (hạnh thanh tịnh).

Trong luật Tát Bà Đa nói: Hoặc có nhà, hoặc không nhà nên nói rằng: Trừ nhà, Sở nhơn như thế có năm nghĩa:

1.      Nếu khi kiết giới y, trong giới không tụ lạc (nhà), kiết rồi nhà đến cất, thời không cần kiết lại, vì trước đã trừ nhà rồi.

2.      Nếu trước có nhà, khi kiết giới rồi họ dời nhà ra ngoài giới đi, ngay chỗ đất trống đó gọi là bất thất y.

3.      Nếu nhà trước nhỏ, sau họ thêm càng lớn, thì trừ chốn chỗ đến, đều không phải giới y.

4.      Nhà trước lớn (ba, bốn cái) khi kiết giới rồi thu nhỏ lại (dở bơt, thời tùy theo chỗ đất trống, đều là giới y.

5.      Nếu nhà vua đến trong giới giăng màn trướng ở, thời tùy theo chỗ làm thức ăn uống và đại tiểu tiện, đều không phải giới của y. Hoặc nhà uyển thuật đến, chỗ ở cũng thế. Nhân sự đến hay đi không nhứt định, cho nên trước kiết giới đã trừ, để khỏi phiền thường thường kiết và giải.

Trong Bản Luật nói: Khi các Tỳ Kheo cách giòng nước chảy xiết, mà kiết giới không mất y, đến khi lấy y bị nước trôi, Phật nói: Không được cách ngoài giòng nước chảy xiết, kiết giới không mất y, trừ ra thường có cầu.              

            Trong luật Ngũ Phận nói: Nên trước kiết đại giới, sau y đại giới, kiết giới không mất y.

            Song đại giới có ba thứ (trong Yết Ma Chỉ Nam tập 2, chương thứ 2, trang 15, kiết giải các giới có giải rõ). Về giới thứ 2: Giới cùng Già lam (chùa) đồng, nghĩa là giới hạn dựng lên, tùy chùa lớn nhỏ, ngoài không còn đất. Trong giới này Tăng cùng y cả hai đều nhiếp, không cần kiết giới y nữa, vì ngoài chùa không giới, ngoài giới không chùa, chùa cùng giới đồng, cho nên cả hai đều nhiếp.

            Khi kiết giới không mất y này, nên kiết sau đại giới, vì y chừng hạn đại giới mà kiết. Giải nên ở trước, vì giới này ở trên vậy. Nếu trước giải Đại giới thời không cần giải nữa. Vì sao? – Vì căn bổn đã trừ, giới ở trên cũng không. Như lồng bàn trên cái mâm, đỡ lồng bàn thì mâm còn, nếu bưng cả mâm thì lồng bàn theo mâm.

            Kiết giới bát thất y trên đại giới rồi, trong đại giới, chỗ nào để y cũng được. Nếu không kiết giới bất thất y, lên chùa tụng kinh lỡ sáng (mình tướng ra) mất y.

PHÉP GIẢI ĐẠI GIỚI

---

 

            Đánh kiền chùy họp Tăng, vấn hòa, như việc thường làm (xem ở đoạn trước). Nhưng nên đáp rằng: “Giải giới yết ma”. Người yết ma nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, Tỳ Kheo ở trụ xứ này, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, nay giải giới, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tỳ Kheo ở trụ xứ này, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nay giải giới, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nay giải giới, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng cho, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nay giải giới xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

Yết ma này không những giải đại giới, thoảng có giới bất thất y và trù khố các giới có thể thông giải. Vì sao? - Vì văn không riêng cuộc vậy. Nếu văn nói: “Giải đại giới”, thời không được thông giải , cần phải mỗi mỗi giải riêng, vì văn đều khác. Trong luật Thập Tụng nói: Giải đại giới, thì giới bất thất y cũng giải, nếu giải giới bất thất y, thì đại giới không giải. Lại nói:

Nếu trước kết giới mà không giải giới cũ (Chỗ Tăng ở trước kiết giới hẹp, sau hoặc có duyên thay đổi: Đất mở rộng, chùa làm lại v.v… phải giải giới trước, rồi kết lại giới khác rộng hơn) thì không được kiết giới trên. (Nếu khi nào giới có thay đổi).

PHÉP KIẾT TIỂU GIỚI

ĐỂ THỌ GIỚI

---

 

 

            Khi bấy giờ có người muốn thọ. Lục quần Tỳ Kheo đến ngăn, các Tỳ Kheo bạch Phật – Phật bảo: Nếu người không đồng ý, chưa ra ngoài giới thì ngoài giới chóng chóng họp một chỗ, kết tiểu giới rồi truyền giới (Không lập nền xướng tướng, lấy chỗ ngồi bao quanh làm giới tướng). Nếu không đồng ý, ở ngoài giới, ngăn không thành ngăn.

 

HỌP TĂNG VẤN ĐÁP NHƯ LỆ THƯỜNG

(Xem ở trước)

            Người Yết ma nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp một chỗ kết tiểu giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, nay giải giới, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp một chỗ kết tiểu giới, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng, Tăng nay họp một chỗ kết tiểu giới, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng kết tiểu giới xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

PHÉP GIẢI TIỂU GIỚI

ĐÃ THỌ GIỚI

---

Phật bảo: Không nên không giải giới mà đi, vậy nên phải giải giới rồi sẽ đi.

Họp Tăng vấn đáp như thường. Người yết ma nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp để giải giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, xin giải giới, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp để giải giới, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng họp để giải giới, thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng giải giới xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

 

PHÉP KIẾT GIỚI TỊNH TRÙ

---

 

            Khi bấy giờ có Tỳ Kheo bịnh ói mửa, bảo người trong thành nấu cháo, nhơn cửa thành mở muộn chưa kịp được cháo, liền chết. Phật nói: Cho ở trong phòng bên chùa chỗ tịnh, kiết làm tịnh trù, nên xướng tướng của phòng, (căn số 1…), tùy theo căn phòng trong năm chúng đều được làm, chỉ mời Tỳ Kheo qua phòng khác.

            Trong luật Ngũ Phận nói: Hoặc ở trong một phòng, một góc, nửa phòng, nửa góc, làm tịnh trù đều được. Vì phép Tỳ Kheo không tự nấu ăn, không để thức ăn trong phòng cùng ngủ. Cho nên  trong giới, khiến kiết giới này làm sự ngăn, thời có thể tránh khỏi hai lỗi là: trong giới mà ngủ, trong giới mà nấu.

            Nếu nghi trước đã có tịnh trù, nay muốn đổi, nên giải rồi bạch nhị Yết ma mà kết.

            Khi kiết giới này, Tăng nên ở ngoài tướng nhà trú xa xướng mà kiết, không được trong tướng nhà trù họp Tăng. Nghi thức hòa hợp Tăng nên xem ở trước, một Tỳ Kheo nên xướng rằng:

 

            Đại đức Tăng nghe, tôi Tỳ Kheo là… vì Tăng mà xướng chỗ chốn tịnh trù, trong Tăng già lam này, phòng (là thế…) làm tịnh trù.

            (Ba lần xướng như thế, người yết ma nên bạch như thế này):

 

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, , bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng nay kiết phòng (là thế…) làm tịnh trù, các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng kiết phòng (là thế…) làm tịnh trù thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Yết ma có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng kiết phòng (là thế…) làm tịnh trù xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.  (Kiết giới tịnh trù sau khi kiết giới bất thất y).

 

Nếu trước khi làm chùa, Đàn việt hoặc người kinh doanh, trước đã định chỗ (là thế…) vì Tăng mà làm tịnh trù, nghĩa là đã trải qua sự định liệu, thời không phải một giới, nên tùy theo phần hạng ở trong đó nấu ăn, chứa đồ, tự nhiên không lỗi. Trường hợp như thế đều không dùng yết ma mà kiết.

PHÉP GIẢI GIỚI TỊNH TRÙ

---

 

Nghi phép hòa hợp Tăng, giải rồi kết cũng như trước.

Người yết ma nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, Tăng nay giải tịnh trù (là thế…) bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay giải tịnh trù (là thế…) các Trưởng lão nào bằng lòng Tăng giải tịnh trù (là thế…) thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng giải tịnh trù (là thế…) xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

 

PHÉP KIẾT GIỚI TỊNH KHỐ

---

 

            Trong luật Ngũ Phận nói: Phật ở trong thành Tỳ Xá Ly, khi bấy giờ nhà nhà đua nhau đem thức ăn chánh thời, thức ăn phi thời, thức ăn 7 ngày, thức ăn suốt đời, cúng Phật và Tăng, không có chỗ để, phải chất giữa sân. Phật nói: Cho lấy căn phòng vừa (không tốt không xấu) bạch nhị Yết ma làm chỗ để thức ăn tịnh. Phép Yết ma hòa Tăng như trước, một Tỳ Kheo xướng rằng: Đại đức Tăng nghe tôi Tý Kheo là… vì Tăng mà xướng chỗ tịnh khố trong Tăng già lam này, lấy phòng (là thếlàm tịnh khố, (Xướng như thế 3 lần). Người Yết ma nên bạch như thế này:

Đại đức Tăng nghe, nay lấy phòng (là thế…) làm chỗ để thức ăn tịnh của Tăng, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận nghe, bạch như thế.

Liền nên hỏi rằng: Tác bạch có thành không?

- Chúng đều đáp rằng: “Thành”.

Lại bạch rằng:

Tăng đã bằng lòng lấy phòng (là thế…) làm chỗ để thức ăn tịnh của Tăng xong, Tăng bằng lòng thì im lặng, việc ấy như thế mà suốt biết.

(Như thế kiết rồi, chứa để không lỗi. Muốn giải, so văn giải tịnh trù trên, chỉ đổi tên, nên biết).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 18344)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
07/06/2021(Xem: 10413)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 10629)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
25/05/2021(Xem: 7503)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
20/05/2021(Xem: 9891)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
07/05/2021(Xem: 16876)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
20/04/2021(Xem: 14431)
Kính bạch chư Tôn Đức, Thưa chư Pháp hữu, nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước. Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa. Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon: https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7 Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật Kính Mail Nhóm Chủ Biên Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
19/04/2021(Xem: 8823)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
31/03/2021(Xem: 10963)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
24/03/2021(Xem: 6547)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567