Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Phẩm Phương tiện

13/12/201004:41(Xem: 6456)
2. Phẩm Phương tiện

 

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng
Dương Lịch 1970

II. PHẨM PHƯƠNG TIỆN(1)

Thuở ấy, trong thành lớn Tỳ Da Ly có ông Trưởng giả tên là DUY MA CẬT, đã từng cúng dường vô lượng các Đức Phật, sâu trồng cội lành, đặng vô sanh pháp nhẫn, biện tài vô ngại , du hí thần thông (2) chứng các môn tổng trì (3) , đặng sức vô úy, hàng phục ma oán, thấu rõ Pháp môn (4) thâm diệu, khéo nơi trí độ, thông đạt các Pháp phưong tiện, thành tựu đại nguyện, biết rõ tâm chúng sanh đến đâu, hay phân biệt rành rẽ các căn lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, lòng đã thuần thục, quyết định nơi Đại thừa. Những hành vi đều khéo suy lường, giữ gìn đúng oai nghi của Phật, lòng rộng như bể cả, chư Phật đều khen ngợi, hàng Đệ tử, Đế Thích, Phạm Vương, vua ở thế gian v.v... thảy đều kính trọng.

Vì muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện là thân Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, có của cải nhiều vô luợng để nhiếp độ các hạng dân nghèo ; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ các kẻ phá giới ; dùng hạnh điều hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ ; dùng đại tinh tiến để nhiếp độ các kẻ biếng nhác ; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm ý tán loạn ; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí ; tuy làm người bạch y (5) cư sĩ mà giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của sa môn; tuy ở tại gia mà không đắm nhiểm ba cõi (6), thị hiện có vợ con, nhưng thường tu phạm hạnh; hiện có quyến thuộc , nhưng ưa sự xa lìa ; dù mặc đồ quí báu, mà dùng tướng tốt để nghiêm thân ; dù có uống ăn mà dùng thiền duyệt (7) làm mùi vị. Nếu khi đến chỗ cờ bạc, hát xướng thì ông lợi dụng cơ hội để độ người ; dù thọ các Pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh tín ; tuy hiểu rõ sách thế tục mà thường ưa Phật Pháp ; cung kính tất cả mọi người làm trên hết trong sự cúng duờng ; nắm giữ chánh Pháp để nhiếp độ kẻ lớn người nhỏ ; tất cả những việc trị sanh (buôn bán làm ăn) hùn hiệp, dù được lời lãi của đời, nhưng chẳng lấy đó làm vui mừng. Dạo chơi nơi ngã tư đường cái để lợi ích chung sanh ; vào việc trị chánh để cứu giúp tất cả ; đến chỗ giảng luận dẫn dạy cho Pháp Đại thừa ; vào nơi học đường dạy dỗ cho kẻ đồng mông ; vào chỗ dâm dục để chỉ bày sự hại của dâm dục ; vào quán rượu mà hay lập chí. Nếu ở trong hàng Trưởng giả, là bực tôn quý trong hàng Trưởng giả, giảng nói các Pháp thù thắng ; nếu ở trong hàng cư sĩ, là bực tôn quí trong hàng cư sĩ, dứt trừ lòng tham đắm cho họ ; nếu ở trong dòng Sát đế lợi (8), là bậc tôn quý trong dòng Sát đế lợi, dạy bảo cho sự nhẫn nhục ; nếu ở trong dòng Bà la môn (9), là bực tôn quí trong dòng Bà la môn, khéo trừ lòng ngã mạn của họ ; nếu ở nơi Đại thần, là bực tôn quí trong hàng Đại thần, dùng chánh pháp để dạy dỗ ; nếu ở trong hàng Vương tử, là bực tôn quí trong hàng Vương tử, chỉ dạy cho lòng trung hiếu ; nếu ở nơi nội quan (10) , là bậc tôn quý trong hàng nội quan, khéo dạy dỗ các hàng cung nữ ; nếu ở nơi thứ dân, là bực tôn quí trong hàng thứ dân, chỉ bảo làm việc phước đức ; nếu ở nơi trời Phạm thiên (11), là bực tôn quí trong Phạm thiên, dạy bảo cho trí tuệ thù thắng; nếu ở nơi trời Đế Thích (12), là bực tôn quí trong Đế thích, chỉ bày cho Pháp vô thường ; nếu ở nơi trời Tứ thiên vương hộ thế (13), là bực tôn quí trong Tứ thiên vương hộ thế, hằng ủng hộ chúng sanh. Trưởng giả Duy Ma Cật dùng cả thảy vô lượng phương tiện như thế làm cho chúng sanh đều được lợi ích.

Ông dùng phương tiện hiện thân có bịnh. Do ông có bịnh nên các vi Quốc Vương, Đại thần, Cư sĩ, Bà la môn cả thảy cùng các vị Vương tử với bao nhiêu quan thuộc vô số nghìn người đều đến thăm bịnh. Vì những người đến thăm bịnh, ông nhơn dịp thân bịnh mới rộng nói Pháp : “Nầy các Nhân giả ! Cái huyễn thân này thật là vô thường, nó không có sức, không mạnh không bền chắc, là vật mau hư hoại, thật không thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bịnh hoạn. Các Nhân giả ! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ, thì cái thân này như đống bọt không thể cấm nắm, thân này như bóng nổi không thể còn lâu ; thân này như ánh náng dợn giữa đồng, do lòng khát ái sanh, thân này như cây chuối không bền chắc ; thân này như đồ huyễn thuật, do nơi điên đảo mà ra ; thân này như cảnh chiêm bao, do hư vọng mà thấy có ; thân này như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện ; thân này như vang của tiếng, do nhân duyên thành ; thân này như mây nổi, trong giây phút tiêu tan ; thân này như điện chớp sanh diệt rất mau lẹ, niệm niệm không dừng ; thân này không chủ, như là đất ; thân này không có ta, như là lửa ; thân này không trường thọ, như là gió ; thân này không có nhân, như là nước ; thân này không thật, bởi tứ đại giả hợp mà thành ; thân này vốn không, nếu lìa ngã và ngã sở ; thân này là vô tri, như cây cỏ, ngói, đá ; thân này không có làm ra (vô tác) (14), do gió nghiệp chuyển lay ; thân này là bất tịnh, chứa đầy những thứ dơ bẩn ; thân này là giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt cuộc nó cũng tan rã ; thân này là tai họa, vì đủ các thứ bịnh hoạn khổ não ; thân này như giếng khô trên gò, vì nó bị sự già yếu ép ngặt ; thân này không chắc chắn, vì thế nào nó cũng phải chết ; thân này như rắn độc, như kẻ cướp giặc, như chốn không tụ (15) vì do ấm (16), giới (17), nhập (18) hợp thành.

Các Nhân giả ! Hãy nên nhàm chán cái thân này, chớ tham tiếc nó. Phải nên ưa muốn thân Phật. Vì sao ? - Vì thân Phật là Pháp thân (19), do vô lượng công đức trí tuệ sanh ; do giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (20) sanh ; do từ bi hỉ xả (21) sanh ; do Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Nhu hòa, Cần hành, Tinh tấn, Thiền định, Giải thoát tam muội (22), Đa văn, Trí tuệ các Pháp Ba la mật (23) sanh ; do Phương tiện sanh ; do Lục thông (24), Tam minh (25) sanh ; do 37 phẩm trợ đạo (26) sanh, do Chỉ quán (27) sanh ; do Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng (28) sanh ; do đoạn tất cả pháp bất thiện, tu các pháp thiện sanh ; do chơn thật sanh; do không buông lung sanh; vô lượng pháp thanh tịnh như thế sanh ra thân Như Lai.

Này các Nhân giả ! Muốn được thân Phật, đoạn tất cả bịnh chúng sanh thì phải phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (29).

Như vậy, Trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bịnh, mà nói Pháp làm cho vô số nghìn người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chú thích của phẩm II

1. Phương tiện: Phương là phương pháp, tiện là tiện dụng; phương pháp đem ra dùng thích hợp căn cơ của mỗi chúng sanh, mỗi thời đại, mỗi quốc độ nên gọi là phương tiện.

2. Du hí thần thông: Phật và Bồ Tát có thần thông tự tại vô ngại, vận dụng hóa độ chúng sanh, làm sự vui chơi của mình, nên gọi là du hý. Lại có nghĩa: Bồ Tát đã lịch thiệp các pháp thần thông, do từ chứng ngộ chơn tánh mà hiển phát, vận dụng xuất nhập dễ dàng như chơi, không điều chi ngăn ngại, chẳng phải như thần thông của nhà ngoại đạo, nhị thừa do tu luyện mà có, còn bị ngại, nên gọi là du hí thần thông.

3. Tổng trì: Tiếng Phạn gọi là Đà la ni, Tàu dịch là Tổng trì, tức là chỉ cho công năng giữ gìn các pháp lành khiến cho không mất, các pháp dữ không sanh, chia làm bốn món :
1) Pháp Đà la ni : với các Pháp Phật dạy nghe giữ gìn không quên.
2) Nghĩa Đà la ni : với nghĩa các pháp giữ gìn không quên.
3) Chú Đà la ni : do sức thiền định phát ra lời bí mật có thần hiệu không lường.
4) Nhẫn Đà la ni : an trú nơi thật tướng của các pháp.
Trong luận Phật Địa, quyển thứ 5 có nói : Đà La ni là sức tăng thượng của niệm tuệ hay giữ gìn vô lưọng Phật pháp.

4. Pháp môn: Giáo pháp của Phật nói ra là phép tắc khuôn mẫu cho thế gian. Các bậc Hiền, Thánh nương vào đó mà được nhập đạo, gọi là Pháp môn. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện nói “... dùng chữ pháp môn tỏ bày Phật đạo”.

5. Bạch y: Danh từ xưng gọi người thế tục, vì người thế tục ưa thích mặc y phục trắng nên gọi là “bạch y”.

6. Ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới.

7. Thiền duyệt: Sự vui thích trong cảnh thiền định. Khi nhập vào cảnh thiền định được nhàn tịnh, thư thới làm cho vui thích tâm thần.

8. Sát Đế Lợi: (Ksatriya) tàu dịch là Điền chủ, giòng vua ở xứ Ấn Độ. Một họ trong bốn họ : 1) Sát đế lợi, 2) Bà la môn, 3)Tỳ xá, 4)Thủ đà.

9. Bà la môn: (Brahmana) Tàu dịch là Tịnh hạnh, một giòng họ tu hạnh trong sạch, thờ trời Đại phạm thiên, ở xứ Ấn Độ.

10. Nội quan: Quan Bộ lại trong cung cấm nhà vua.

11. Phạm thiên: hoặc Đại phạm thiên vương là vua cõi trời sơ thiền nơi Sắc giới. Cõi sơ thiền có 3 từng trời : 1) phạm chúng, 2) Phạm phụ, 3) Đại phạm, đã xa lìa sự dục nhiễm ở cõi Dục giới, thân tâm yên tịnh trong sạch nên gọi là Phạm thiên.

12. Đế Thích: Là vị trời chủ tể cõi Đạo Lợi Thiên trên chót núi Tu Di. Từng trời này có 33 cõi mà vị Đế Thích ở cõi chính giữa thống lãnh 32 cõi kia.

13. Tứ Thiên Vương hộ thế: Bốn vị ở bốn phía ngang lưng chừng núi Tu Di, làm vị ngoại tướng giúp đỡ trời Đế Thích coi sóc dân gian, mỗi vị ủng hộ mỗi châu thiên hạ nên gọi là Tứ Thiên Vưong hộ thế :
1) Trì quốc thiên vương ở phương đông ;
2) Tăng trưởng thiên vương ở phương nam ;
3) Quảng mục thiên vương ở phương tây ;
4) Đa văn thiên vương ở phương bắc.

14. Vô tác: Không có thi vi tạo tác, là ý nói cái thân do nhân duyên hiệp thành, không có chủ tể nên nó không tự động tác chuyển vận được.

15. Như chốn không tụ: Như chỗ tụ lạc (xóm làng) trống không, vắng vẻ có bọn giặc cướp nưong ở, hoặc chỗ đồng trống có ác quỉ nhóm họp, là chỗ đáng ghê sợ, đáng nhàm chán không thể nương ở được. Thân con người cũng như thế, do tứ đại họp thành là đống không trơn, lại là ổ chứa nhóm tội lỗi, chiu mọi sự thống khổ bịnh hoạn già chết ép ngặt, nên đáng nhàm chán xa lìa cũng như chốn không tụ kia.

16. Ấm : Năm ấm : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

17. Giới : 18 giới : 6 căn : nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý ; 6 trần : sắc, thinh, huơng vị, xúc, pháp ; 6 thức : nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

18. Nhập : 12 nhập : sáu trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp xung nhập với 6 căn : nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.

19. Pháp thân : Là pháp giới tánh hay là chơn như. Thân có nghĩa là nhóm họp, nên Pháp thân là chỗ sở y chứa nhóm tất cả công đức Pháp tánh. Lại đức Phật lấy pháp tánh chơn như làm thân, nên gọi là pháp thân.

20. Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến : Năm món này gọi là ngũ phần Pháp thân :
1) Thân, khẩu, ý xa lìa tất cả tội lỗi gọi là giới.
2) Chơn tâm đứng lặng lìa tất cả vọng niệm gọi là Định.
3) Chơn trí sáng suốt chiếu tỏ các pháp gọi là Tuệ.
4) Thân tâm giải thoát không bị triền phược gọi là giải thoát.
5) Biết mình thật giải thoát gọi là giải thoát tri kiến.
Người tu hành nhờ giới, định, tuệ làm nhơn mà chứng được thể giải thoát, giải thoát tri kiến của Pháp thân là quả, nên gọi là ngũ phần pháp thân.

21. Từ, bi, hỉ, xả : Xem số 5 về phần chú thích ở phẩm trước .

22. Tam muội : Tàu dịch là Định Tâm, định trụ một cảnh, xa lìa những sự loạn động.

23. Ba la mật (Paramita) : Tàu dịch có ba nghĩa 1) Cứu cánh, 2) Đáo bỉ ngạn, 3) Độ vô cực. Danh từ Ba la mật này là do đại hạnh của các vị Bồ Tát mà đặt tên. Chính mình thật thành đại hạnh và giáo hóa cho người đến chỗ rốt ráo nên gọi “sự cứu cánh”. Nương theo dại hạnh của Bồ Tát được từ bờ sanh tử bên này tới bờ Niết bàn bên kia, nên gọi “đáo bỉ ngạn”. Nhờ đại hạnh mà được các pháp rộng rãi sâu xa không bờ bến, nên gọi “Độ vô cực”.

24. Lục thông : Sáu món thần thông :
1) Thiên nhãn thông : con mắt thấy xa đến cả đại thiên thế giới, những vật nhỏ nhít như vi trùng, những vật có chất ngại, cản trở đều thấy được hết, thấy rõ các chúng sanh trong nhiều kiếp lâu xa, chết ở cõi nào, sanh về cõi nào đều thấy rõ rệt.
2) Thiên nhĩ thông : lỗ tai nghe xa đến cả thế giới, nhẫn đến tiếng rung động hết sức nhỏ, những tiếng nói của các loại đều nghe được hết.
3) Tha tâm thông : hiểu biết được tâm nỉệm tư tưởng của tất cả chúng sanh.
4) Túc mạng thông : biết rõ những kiếp trước của mình và của chúng sanh không điều gì ngăn ngại.
5) Thần túc thông : được các pháp thần thông biến hóa tự tại.
6) Lậu tận thông : trừ sạch hết thảy phiền não.

25. Tam minh :
l) Túc mạng minh : biết được những việc sống chết đời trước của mình và của tất cả chúng sanh .
2) Thiên nhãn minh : biết được những việc sống chết đời sau của mình và của tất cả chúng sanh.
3) Lậu tận minh : biết được những sự khổ hiện tại, dùng trí tuệ trừ sạch hết các phiền não.

26. Ba mươl bảy phẩm trợ đạo : 4 pháp niệm xứ ; 4 pháp chánh cần ; 4 pháp như ý túc ; 5 căn ; 5) lực ; 7 pháp giác chi ; 8 pháp đạo phần. 37 pháp này giúp cho người tu hành thành tựu đưọc đạo quả nên gọi là trợ dạo.

4 pháp niệm xứ: niệm ]à tâm năng quán (tâm hay quán sát), xứ là cảnh sở quán (cảnh bị quán sát). Vì chúng sanh vọng chấp thân ngũ ấm này, nên Phật nói 4 phép quán để đối trị :

1) Quán thân bất tịnh : Quán sát thân này là vật nhơ bẫn.
2) Quán thọ là khổ: Quán sát sự thọ lãnh của thân tâm là khổ.
3) Quán tâm vô thuờng : Quán sát tâm thức luôn luôn sanh diệt không thường trụ .
4) Quán sát vô ngã: Quán sát các pháp không có chủ tể.

4 pháp chánh cần:
1) Đoạn những ác pháp đã sanh ;
2) Đoạn những ác pháp chưa sanh ;
3) Làm cho các pháp lành tăng trưởng ;
4) Làm cho các pháp lành chưa sanh được sanh.

4 pháp như ý túc :
1) Dục như ý túc : có tâm ham muốn tu tập các pháp lành thì được như ý.
2) Niệm như ý túc : quán sát cảnh gì mà nhứt tâm chuyên chú vào đó thì được như ý.
3) Tinh tấn như y túc : do tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý.
4) Tư duy như ý túc : do suy nghĩ mà tu tập được kết quả.

5 căn :
1) Tín căn : tin theo chánh đạo và trợ đạo.
2) Tinh tấn căn : là sự dõng mãnh tu theo thiện pháp ;
3) Niệm căn : ghi nhớ các pháp chánh đạo và trợ đạo ;
4) Định căn : nhiếp tâm theo chánh đạo ;
5) Huệ căn : nhờ có dịnh mà chân tánh tự sáng suốt không phải ở ngoài vào.

5 lực: cũng như ngũ căn nhưng vì thật hành theo ngũ căn thì căn lành có sanh, song gốc ác chưa phá hết nên phải gia công tu tập thêm khiến cho thiện căn tăng trưởng. Khi thiện căn thành thục, các ác pháp khỏng còn, nên gọi là ngũ lực.

7 pháp giác chi: Giác là tỏ, nghĩa là tỏ biết pháp tu chơn hay ngụy. Chi là ngành, nghĩa là 7 pháp này có chi phái khác nhau không xen lẫn nhau nên gọi là 7 pháp giác chi hay là 7 pháp giác phần :
l) Trạch pháp giác chi : dùng trí tuệ quan sát các pháp, giản trạch rõ ràng chơn ngụy.
2) Tinh tấn giác chi : dõng mãnh chuyên tâm tu tập các pháp chơn chánh. (Không làm theo những khổ hạnh sai lầm của ngoại đạo) luôn luôn không gián đoạn.
3) Hỉ giác chi : Khởi tâm vui mừng khi ngộ được chơn pháp. Mừng này chẳng phải như những lối mừng theo các việc thường tình điên đảo hư vọng, mà là mừng được an trụ nơi pháp chơn chánh.
4) Trừ giác chi : đoạn trừ phiền não thô trọng làm cho thân tâm nhẹ nhàng thư thới, xa lìa các pháp hư giả, tăng trưởng công đức chơn thiện.
5) Xả giác chi : lìa bỏ tất cả pháp chơn, vọng, lòng rổng rang bình đẳng không tưởng dến.
6) Định giác chi : nhứt tâm an trụ một cảnh, xa lìa vọng tưởng tán loạn.
7) Niệm giác chi : thường ghi nhớ pháp tu rõ ràng khiến cho định, tuệ bình đẳng.
Lúc tâm hôn trầm nhớ ngay đến ba chi giác : trạch pháp, tinh tấn, hỉ giác mà quán sát các pháp cho khỏi hôn trầm. Lúc tâm loạn vu vơ, nghĩ ngay đến ba chi : “Trừ giác” để trừ sạch các lỗii vê thân miệng ; “Xả giác” để xả tiêu cái trí quán sát ; “Định giác” để vào nơi chánh định thu nhiếp cái tâm tán loạn, cho khòi xao động vu vơ.

8 pháp đạo phần:
1) Chánh kiến : sự hiểu biết chơn chánh.
2) Chánh tu duy : sự suy nghĩ chơn chánh.
3) Chánh ngữ : nói những lời chơn chánh không hư vọng.
4) Chánh nghiệp : hành động chơn chánh.
5) Chánh mạng : lấy sự khất thực để nuôi sống thân mạng.
6) Chánh tinh tấn : tu theo giới, định. tuệ một lòng tinh chuyên không gián đoạn.
7) Chánh niệm : ghi nhớ nhữmg pháp chơn chánh.
8) Chánh định : thu nhiếp thân tâm thường được tịch tịnh.

27. Chỉ quán : Tiếng Phạn là Xa ma tha Tỳ bác xá na, Tàu dịch là chỉ quán hay là định tuệ, tịch chiếu, minh tịnh. Chỉ : là ngăn dửt tư tuởng vọng niệm, đoạn trừ giác quán sai lầm, đối với đế lý không lay động. Quán : là trí quán sát phân biệt, hiểu rõ danh tướng các pháp nhơn duyên sanh diệt, khế hội vào lý chơn như.

28. Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng : đã giải nơi phẩm trước.

29. Vô thượng chánh đẳng chánh giác : chỗ giác ngộ của Phật không còn ai hơn nữa gọi là Vô thượng, xa lìa tà vọng gọi là Chánh, ngộ được chơn lý nên gọi là Giác. Phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác là phát tâm mong cầu trí giác vô thượng, quả Phật cứu cánh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 12644)
Rất nhiều trong số những khái niệm và nhận thức của chúng ta được xây dựng dựa trên những định kiến và quy ước. Những gì được cho là tốt, xấu, hay, dở... ở một nơi này lại rất có thể sẽ không được đánh giá tương tự như thế ở một nơi khác. Đơn giản chỉ là vì những định kiến và quy ước khác nhau. Những phong bao đỏ lì xì trong dịp Tết chẳng hạn, rất quen thuộc ở một số nước Á Đông, nhưng lại có thể là xa lạ đối với đa số các nước Âu Mỹ. Ngược lại, hai người bạn lâu ngày gặp nhau ôm hôn trên đường phố để tỏ tình thân ái là việc rất bình thường trong xã hội Âu Mỹ, nhưng có thể mọi người đều sẽ lấy làm lạ nếu điều đó lại xảy ra trên một đường phố ở Á Đông...
17/08/2014(Xem: 16527)
Trong khoảng vài thập niên vừa qua, sự bùng nổ các phương tiện thông tin trên toàn thế giới, và nhất là trên khắp các thành phố lớn ở Việt Nam ta, đã mang đến những thuận lợi lớn lao thúc đẩy sự tiến bộ vượt bực trong hầu hết các lãnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục... Nhưng bên cạnh đó, môi trường phát triển mới cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức, những ưu tư lo ngại về sự phát triển tinh thần của thế hệ trẻ trong tương lai.
17/08/2014(Xem: 12705)
Một buổi sáng thức dậy băn khoăn nghe tiếng chim rất lạ. Mỗi một nụ cười, ánh mắt, bước chân đi cũng dường như thay đổi. Lòng dạt dào những cảm xúc khó tả, và nghĩ đến điều gì cũng thấy như mình đã hiểu biết rất nhiều hơn. Ô hay, mình đã lớn!
17/08/2014(Xem: 28423)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
17/08/2014(Xem: 27234)
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
17/08/2014(Xem: 13800)
Thời gian làm việc của chúng ta bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuộc sống hằng ngày, cho dù là ta đang giữ bất cứ vị trí nào trong xã hội. Vì thế, qua công việc chúng ta không chỉ nhận được những giá trị vật chất bằng vào sức lao động của bản thân, mà còn có cả những giá trị tinh thần trong cuộc sống...
15/08/2014(Xem: 10730)
Bộ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu nầy, do Hòa Thượng Kiến Lão dựa theo Tâm Đại Từ Bi của Đức Phật, Ngài rút ra từ phẩm Tịnh Hạnh trong kinh HOA NGHIÊM, trong MẬT BỘ và trong các Kinh Luật, viết thành 53 bài kệ với 38 câu thần chú, rồi sắp xếp theo hệ thống, hợp thành một quyển. Lời văn dón gọn dễ nhớ, rất tiện cho kẻ sơ cơ nhập Đạo, làm khuôn thước cho thân tâm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của người tu, không vượt ra ngoài giới luật, khiến cho hành giả suốt ngày đêm 24 giờ, tất cả đều nằm trong khuôn khổ thánh thiện. Đây chính là thềm thang tiến tu Đạo nghiệp, là cửa ngỏ đi vào cảnh giới Phật Đà. Người tu hành quan trọng nhất là Điều Phục Vọng Tâm và An Trụ Chơn Tâm, vì tâm chính là chủ của thân, thân chỉ là dụng của tâm. Do đo,ù muốn An Trụ Chơn Tâm, muốn hiển lộ Tánh Giác thì phải thân đâu tâm đó, cần phải làm gì biết nấy, để khỏi chạy theo vọng niệm.
22/07/2014(Xem: 32287)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
21/03/2014(Xem: 25564)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
27/10/2013(Xem: 13563)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ DÒNG SUỐI TỪ (thơ Hạnh Cơ), trang 7 ¨ CẦU NGUYỆN CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC (HĐGP & HĐĐH GHPGVNTNHK), trang 8 ¨ THÔNG TƯ VỀ LỄ TƯỞNG NIỆM ĐLHT THÍCH CHÍ TÍN (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH CHÍ TÍN (Môn đồ pháp quyến),trang 10 ¨ NHỚ LẠI ÂN XƯA (Nguyên Siêu),trang 11 ¨ DUYÊN LÀNH HỌC PHẬT (ĐLHT. Thích Thắng Hoan), trang 12 ¨ HỌC PHẬT (HT Thích Tín Nghĩa), trang 13
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]