Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)

07/01/201503:35(Xem: 15352)
Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)
buctranhphatthichca3
Lời Ban Biên Tập:
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự. BBT/TVHS xin cảm ơn tác gỉa quyển sách Mùi Hương Trầm và bài viết này. Riêng về bức tranh vẽ mầu được một Phật tử Trung Hoa làm lại, đưa mầu vào và ghi thêm chữ Hán (dòng chữ Hán bên trên là Thích Ca Mâu Ni Phật và hai hàng chữ Hán hai bên là bài kệ lấy từ kinh Kim Cang: "Nhất thiết hữu vi pháp / Như mộng, huyễn, bào, ảnh / Như lộ diệc như điện / Ưng tác như thị quán." Mời quý độc giả xem tiếp bài viết của GSTS. Nguyễn Tường Bách: Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca



VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA
Nguyễn Tường Bách

Trước hết, người viết bài này xin trân trọng cám ơn những nhận xét đầy khích lệ của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão về “Mùi Hương Trầm“. Những phê bình tốt đẹp đó đem lại thêm cho người viết lòng tri ân về những nhân duyên sâu kín đã tạo tác nên tác phẩm này, trong đó người viết chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là viết lại những gì mình từng thấy, từng nghe, từng đọc.

Trong bài viết, tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão nêu nghi vấn về một tấm hình của đức Thích-ca trích đăng trong “Mùi Hương Trầm“. Tác giả nêu câu hỏi, phải chăng bức hình này đích thực là từ thời lúc Phật còn tại thế truyền lại, do đệ tử của Ngài là Phú-lâu-na (Purna) vẽ lúc Ngài khoảng 41 tuổi. Nghi vấn này cho ta thấy cặp mắt sắc bén của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão, nó đòi hỏi một câu trả lời thành tâm và nghiêm túc.


buctranhphatthichca3

Phật Thích-ca lúc 41 tuổi


Trước hết, bức hình này gây nhiều sự kinh ngạc và thú vị cho người xem, trong đó có tác giả của “Mùi Hương Trầm”. Tất cả những hình tượng khác của Phật Thích-ca đều có tính chất tượng trưng. Chỉ duy nhất bức hình trên đây trình bày Ngài như một con người bằng xương bằng thịt. Bức hình này có thật không ?

Về bức hình này cũng như về nhiều chi tiết khác trong “Mùi Hương Trầm“, tác giả phải dựa vào các nguồn thông tin khác, nhất là kinh sách, tư liệu của các tác giả khác, chứ không được thấy tận mắt. Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982). Thiền sư Deshimaru đến Pháp năm 1967 và xuất bản tác phẩm đầu tay nói trên vào năm 1969. Tác phẩm này cũng đã được Ngô Thành Nhân/Trần Đình Cáo dịch ra Việt ngữ dưới tên “Chân Thiền“ và xuất bản năm 1992. Tài liệu thứ hai là của thiền sư Tinh Vân (Hsing Yun). Thiền sư Tinh Vân, sinh năm 1927 tại Trung Quốc, là tổ thứ 48 của dòng Lâm Tế. Thiền sư Tinh Vân là tác giả của gần 30 tác phẩm, sáng lập hội Buddha's Light International Association (BLIA) và hiện nay đi du hóa trên toàn thế giới.

Trong các tác phẩm của Tinh Vân ta tìm thấy một tài liệu mang tên Seeing the Buddha[1][1]. Trong tác phẩm này Tinh Vân luận giải rất hay về các loại “thân“ của Phật, từ tranh tượng thông thường đến các dạng “hiện tướng“ khác nhau của Pháp thân Phật. Đặc biệt, dựa trên kinh A-hàm, Tinh Vân cho hay, bức tượng đầu tiên của Phật là do nhà vua Udayana của nước Kausambi cho tôn tạo lúc Ngài còn tại thế. Truyền thuyết kể lại, lúc Phật đến cung trời Tam thập tam để giảng pháp cho mẹ, nhà vua cho đẽo bức tượng bằng gỗ chiên đàn để tưởng nhớ đến Phật. Sau ba tháng, lúc Phật trở lại thế gian, bức tượng trở nên sống động và đến “chào“ Ngài. Phật mỉm cười nhìn tượng và nói: “Ba tháng qua chắc ngươi mệt lắm nhỉ!“. Sau nhà vua Udayana, vẫn theo Tinh Vân trích kinh A-hàm, nhà vua Ba-tư-nặc của nước Kiều-tát-la và trưởng giả Cấp Cô Độc cũng cho đúc tượng của Phật.

Cũng trong tác phẩm này, Tinh Vân viết thêm: “Trong những năm qua, chúng ta được nghe có một bức tranh của Phật còn xưa hơn cả bức tượng đầu tiên. Viện Bảo tàng Anh quốc tại Luân Đôn có một sưu tập gồm nhiều bức tranh của Phật. Trong những bức tranh đó có một bức mà viện bảo tàng tôn quí nhất. Đó là một bức tranh vẽ Phật lúc Ngài 41 tuổi. Bức tranh do Phú-lâu-na vẽ, một vị đệ tử của Phật và màu sắc (của bức tranh) ngày nay vẫn còn sinh động. Hình chụp của bức tranh này hiện nay được lưu hành tại Nhật và Đài Loan“.

Như thế, thiền sư Tinh Vân cũng chỉ nghe nói đến bức tranh này chứ chưa được thấy tận mắt. Người viết bài này cũng chưa có dịp đến viện bảo tàng British Museum để tìm kiếm bức tranh nọ, nhưng đã lục lọi trên Internet, vào trong các bộ sưu tập tranh của viện bảo tàng nhưng cũng không thấy bức tranh nọ được trưng bày trong mạng. Vì thế lai lịch bức tranh, liệu nó có thật hay không, vẫn còn là một nghi vấn. Người ta chỉ biết chính xác là rất nhiều cổ vật của Ấn Độ được mang về Anh vì Ấn Độ một thời là thuộc địa của Anh, và không phải cổ vật nào cũng được trình bày cho công chúng xem. Do đó, nghi vấn này không biết bao giờ mới giải đáp chính xác được. Độc giả nếu có ai đã từng xem được bức tranh hay có thông tin gì về nó, xin thông báo cho chúng ta được biết chung.

Trong bài này, ta hãy thử tìm hiểu thêm các nguồn tài liệu khác để có một cái nhìn khách quan về niên đại của tranh tượng về Đức Phật. Một nguồn thông tin cho hay, tượng Phật cổ nhất được tìm thấy là tại Tích Lan, với niên đại của thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Theo những tài liệu khác, tại Gandhara (Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan), lúc vùng này bị Hy Lạp chiếm đóng trong khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đến thế kỷ thứ sáu sau công nguyên, con người bắt đầu trình bày Đức Phật với nhân trạng, theo truyền thống Hy Lạp. Theo nhà Phật học W.Schumann[2][2], hình ảnh đức Phật bắt đầu được tôn tạo khoảng 450 năm sau ngày Ngài diệt độ. Theo L.M.Joshi thì bức tượng Phật cổ nhất được tìm thấy tại Mathura (Bắc Aán) với niên đại của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nói chung các nhà nghiên cứu khoa học đều thừa nhận là không thể biết đích xác và cũng không hoàn toàn thống nhất về niên đại của tranh tượng đầu tiên của Đức Phật.

Ngoài vấn đề niên đại, các nhà nghiên cứu phương Tây có những lời giải thích hữu lý về vai trò của tranh tượng. Theo họ, ngày xưa đối tượng để thờ cúng không phải là tranh tượng mà là xá lợi và các tháp chứa đựng xá lợi. Theo thời gian, quan niệm thờ cúng xá lợi và bảo tháp hẳn không thể tồn tại được lâu, nhất là với sự phát triển rộng khắp của đạo Phật. Ngày nay người ta phát hiện một văn bản du nhập vào Trung quốc năm 148 sau công nguyên, trên đó có ghi: “...đệ tử đích thực của Phật cần đảnh lễ tranh tượng của Ngài mỗi sáng mỗi tối và thường xuyên đốt đèn để tỏ lòng tôn kính Ngài...“[3][3].

Với những lẽ trên, ta có thể chắc chắn tranh tượng đức Phật đã hình thành chậm nhất từ đầu công nguyên. Đó là điều khoa học có thể chứng minh. Còn các bức tượng bằng gỗ và bằng vàng mà Tinh Vân nói đến, bức tranh vẽ đức Phật của Phú-lâu-na mà cả hai thiền sư khả kính Taisen Deshimaru lẫn Tinh Vân nhắc nhở thì sao? Nói một cách nghiêm túc, các tác phẩm nghệ thuật đó chưa được chính thức khẳng định và thừa nhận. Liệu một ngày nào đó, bảo tàng viện của Luân-đôn sẽ trình bày bức tranh và Phật tử có thể chiêm bái bảo vật vô giá nói trên, điều đó cần một nhân duyên lớn.

Thế nhưng, trong lúc chờ đợi, có lẽ ta nên nghĩ như Tinh Vân trong tác phẩm Seeing the Buddha. Theo đó, Thân Phật chỉ là Ứng thân của Ngài, bức tranh (nếu có) lại càng là một phần của Ứng thân. Còn Pháp thân của Ngài là đang ở khắp nơi và hiện hữu trong từng khoảnh khắc.

NTB (16.1.03)



pdf
Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca (PDF)



[1]
[1] http://www.blia.org/english/publications/booklet/pages/21.htm

[2][2] W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Verlag 1986

[3][3] Theo L.M.Joshi, Buddhistische Kunst und Architektur, trích trong Die Welt des Buddhismus, Orbis Verlag 2002

Bài / Sách liên quan đến chủ đề:
MÙI HƯƠNG TRẦM- Nguyễn Tường Bách
Ý kiến bạn đọc
31/03/201906:58
Khách
Hình Phật Thích Ca gì ma trông giống như hippy, tỉa râu mép, để tóc dài !!
Ông Nguyễn Tuờng Bách là người có ăn học hiểu biết, nhưng ăn không ngồi rồi, không biết cách và không lo chuyện tu tập, chỉ thích viết lách nói chuyện bá xàm, chỉ thích đề cập những chuyện nhảm nhí như vậy, vừa làm mất thì giờ của mình, vừa làm phiền bao nhiêu người khác mất công đọc ông ta.
Trong một kinh Pali, Phú Lâu Na (Punna) được Đức Phật giảng cho một pháp ngắn gọn rồi đi đến một vùng xa xôi, dân tình hung bạo để tu tập. Sau đó Punna đã chứng tam minh và thành lập/ giáo hóa một tăng đoàn và một ni đoàn, mỗi giáo đoàn 500 người, truớc khi Ngài nhập niết bàn.
05/07/201602:26
Khách
BU'́C TRANH NÀY LÀ BU'́C TRANH NGỤY TẠO , KHÔNG PHẢI LÀ TRANH CỦA PHẬT . VÌ LÝ DO : KHI PHẬT ĐÃ THÀNH LẬP TĂNG ĐOÀN THÌ PHẬT ĐÃ RA LUẤT ĐẦU TÓC CẠO SẠCH, BA Y, MỘT BÁT ; KHI PURNA PHÚ LÂU NA GIA NHẬP TĂNG ĐOÀN VÀ NẾU VẼ HÌNH PHẬT NĂM NGÀI 41 TUỔI THÌ NHẤT ĐỊNH NGÀI KHÔNG ĐỂ TÓC VÀ ĐỂ RÂU , LÝ DO THẦY PHẢI LÀ GU'O'NG GI'U'̃ LUẬT VÀ GIO'́I HO'N TRÒ THÌ MO'́I LÀ THẦY . HAI NU'̃A TAI CỦA PHẬT LO'́N VÀ DÀI , TRONG HÌNH TAI RẤT NHỎ BẺ ; THU'́ BA PHẬT LÀ DÒNG GIỐNG MẮT HAI MÍ, TRONG HÌNH LÀ DÒNG GIỐNG MẮT MỘT MÍ TRÔNG GIỐNG NHU' DÂN CHINA CHU'́ KHÔNG GIỐNG ẤN ĐỘ .
THU'́ HAI NẾU NGÀI PURNA VẼ HÌNH PHẬT THÌ NHẤT ĐỊNH CŨNG CÓ VẼ VÀI HÌNH CÁC VỊ THÁNH CHÚNG KHÁC , CHU'́ KHÔNG CÓ LÝ CHỈ VẼ ĐỘC NHẤT CHỈ MÔT HÌNH PHẬT LÚC 41 TUỔI RỒI NGU'NG .
THU'́ BA TRONG TẤT CẢ PHÂT KINH CŨNG KHÔNG THẤY MỘT KINH NÀO NÓI NGÀI PURNA VẼ HÌNH PHẬT.
THU'́ BỐN , HÌNH VẼ NÀ KHÔNG CÓ AI LÀM CHU'́NG ĐÂY LÀ HÌNH PHẬT KHI NGÀI BỐN MU'O'I MỐT TUỔI. NGAY ĐẾ ĐẠO CÔNG GIÁO CŨNG KHÔNG CÓ AI NÓI ĐÂY LÀ HÌNH PHẬT .
THU'́ NĂM , NGAY ĐẾN JESUS SINH SAU PHẬT 500 NĂM , NGHĨ LÀ THO'̀I ĐÓ NGÀNH VẼ ĐÃ TIẾN BỘ CAO MÀ CHÍNH JESUS CŨNG KHÔNG CÓ ĐẾN MỘT TẤM HÌNH VẼ LU'U LẠI ; ĐỂ ĐẾN NAY HÌNH JESUS ĐỀU LÀ HÌNH DO CON NGU'O'̀I TU'O'̉NG TU'O'̣NG VẼ RA.
THU'́ SÁU NẾU CÓ HÌNH CHÍNH THU'́C DO PURNA VẼ CÒN LU'U TRYỀN THÌ TÂY PHU'O'NG ĐÃ XÚM LẠI PHÂN CHẤT CARBON ĐỂ TÌM CHÂN GIẢ , KHOA HOC TÂY PHU'O'NG KHÔNG BAO GIO'̀ KHÔNG CHEN VÀO ĐỂ TÌM HIỂU , VÌ KHOA HỌC TÂY PHU'O'NG RẤT TÒ MÒ MUỐN BIẾT RÕ PHẬT LÀ AI ?
THU'́ BẢy , PHẬT ĐU'O'̣C TẢ RẤT KỸ CÓ 36 TU'O'́NG TỐT VÀ 80 TU'O'́NG VI DIỆU , NHU'NG VỊ TRONG HÌNH CHỈ CÓ VẺ LÀ NGU'O'̀I NAM TRÔNG BÌNH THU'O'̀NG CHU'́ KHÔNG CÓ VẺ NÀO ĐẸP HO'N TÀI TU'̉ MỸ VÀ TRAI ĐẸP TRUNG ĐÔNG .
KẾT : ĐÂY LÀ HÌNH BÊU RIẾU ĐẠO PHẬT NÊN HÌNH PHẢI BỊ HỦY ĐI .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 11477)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 8104)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 12072)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 12437)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 10983)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 9229)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 12674)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 11340)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 8914)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 8850)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567