Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Miền nhớ

16/02/201115:25(Xem: 3569)
Miền nhớ

BÓNG TRÚC BÊN THỀM
Tâm Chơn

Miền nhớ

Một tuần vụt qua.

Trên đường về lại Arkansas, anh hỏi tôi thấy Cali thế nào? Tôi định trả lời là cũng vậy thôi thì chợt nhớ tới bài thơ mới làm hồi hôm, bèn đem ra đọc:

“Đến Cali, bỗng nhớ Sài Gòn!
Một thuở đăng trình, giấc mộng con
Giữa chốn phồn hoa, vui đại ẩn
Mặc đời lộn lạo, giữ lòng son.

Chiều nay đất khách tha phương
Buồn vui trăm nỗi, cố hương vọng về
Quê người bàng bạc nhiêu khê
Quê nhà một góc, bốn bề thênh thang.”
Anh khẽ cười, đó cũng là tâm trạng của những người con xa xứ. Nhưng mà, anh nói tiếp, nhờ có những ngôi chùa mà nỗi buồn tha hương vơi đi ít nhiều.

Nghe anh nhắc tới chùa, tôi thấy lòng hỉ hả như đang được hành hương về đất Phật.

Mấy ngày ở California tôi có dịp đi thăm viếng nhiều chùa của cộng đồng người Việt. Có chùa được thành lập từ việc mua lại nhà thờ công giáo, có chùa được xây theo quy cách của khu đô thị, có chùa được dựng lên từ ngôi nhà cặp theo dãy phố, có chùa mái ngói hình đao uốn cong, dáng vẻ thanh thoát rất Việt Nam… Nhưng dù chùa có mang kiểu dáng gì đi nữa thì muôn đời vẫn là nơi đời sống tâm linh của những đứa con xa quê mẹ hướng về.

Như anh cũng biết, kể từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam thì chùa chiền cũng có mặt khắp nơi, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân và góp phần bảo lưu văn hóa dân tộc. Từ đó, hiển nhiên, chùa trở thành nơi nương tựa tinh thần của người dân và là biểu tượng tâm linh của dân tộc. Như nhà thơ Huyền Không đã nói:

“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”
Trải bao đời nay, trong tâm thức của người dân Việt, mái chùa đã trở nên thân thương, quen thuộc, không thể tách rời. Sự gắn bó hài hòa sâu sắc và bền chặt đó phải chăng là nguyên lý ngàn đời của dân tộc Việt Nam: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”? Cho nên, nếu vì cuộc mưu sinh mà cất bước hải hồ, bôn ba vạn nẻo thì thử hỏi mấy ai không khỏi thổn thức, xót xa:

“Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!”
Nhưng người Việt không bỏ chùa. Nơi nào có người Việt sinh sống thì y như rằng nơi đó có chùa, có tình yêu đất nước. Bởi trong tâm khảm, người Việt luôn ý thức chùa là hình ảnh của quê hương, tổ quốc, là hồn dân tộc.

Nhớ có lần tôi nói với anh, qua bên này mới hiểu rõ hơn giá trị câu thơ bất hủ về “mái chùa Việt che chở hồn nước Việt” của tác giả Huyền Không.

Huyền Không là bút hiệu của cố Hòa thượng Thích Mãn Giác. Khi qua đây, tôi có chút duyên đến tham dự buổi lễ Đại tường tưởng niệm hai năm Ngài “quảy dép về Tây” tại chùa Việt Nam - Los Angeles.

… Im lặng một hồi, anh quay lại vấn đề hình ảnh các ngôi chùa Việt Nam ở hải ngoại. Riêng nói về chùa chiền cũng như Phật giáo Việt Nam ở Mỹ thì trong một bài viết có đoạn khái quát như sau:

“Sau năm 1975, làn sóng người Việt sang định cư tại Hoa Kỳ càng lúc càng nhiều. Tổng số lên đến hai triệu người ở rải rác trên khắp 50 tiểu bang của Mỹ. Tập trung đông nhất ở hai tiểu bang California và Texas. Sau khi cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tín ngưỡng là nhu cầu cấp thiết. Phần vì cần điểm tựa cho tinh thần nơi đất khách quê người, phần vì muốn duy trì văn hóa tín ngưỡng dân tộc, phần vì nhớ thân nhân, phần vì nhớ quê hương là những động cơ thúc đẩy người Việt lập chùa. Sau những giờ làm việc cực nhọc, họ đến chùa gặp những người thân quen hàn huyên cho vơi đi nỗi buồn xa xứ.”

Chiều nay, giữa nơi đất khách, trong miên man nỗi nhớ cố hương, thiết nghĩ không thể không nhắc lại bài thơ Nhớ chùa mà cố Hòa thượng Mãn Giác đã gởi gắm lòng mình thay cho tất cả những người con Việt Nam đang rong ruổi:

“Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa.

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng.

Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười.

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.

Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi thôn xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình.

Tối đến dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh.

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào.

Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê.

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”
Sở dĩ tôi trích dẫn nguyên bài như vậy là vì tôi thấy rằng trên bước đường phiêu bạt chúng ta đã gặp nhau trong nỗi “Nhớ chùa” và nhờ “nhớ chùa” mà chúng ta còn có được một nơi để trở về. Nơi đó chính là cội nguồn dân tộc, là gốc rễ tâm linh, là giá trị đạo đức chân-thiện-mỹ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2019(Xem: 5607)
DẪN NHẬP Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán. Vì thế đường tu quan trọng của họ là A-La-Hán đạo. Khi đạt được quả vị này thì các ngài nhập Niết-Bàn. Khi còn thân, thì gọi là Hữu-Dư-Y-Niết-Bàn. Trong thời gian này các ngài đi giáo hoá chúng sanh. Khi bỏ thân, thì nhập Vô-Dư-Y-Niết-Bàn không tái sanh nữa.
07/10/2019(Xem: 5192)
Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.
05/10/2019(Xem: 4150)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
05/10/2019(Xem: 5887)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tán có tính cách phê phán như: "Nhân cách của ông A thật là hoàn hảo" hay "Tư cách người đó không ra gì...." hoặc "Sống sa đoạ quá làm mất cả nhân cách" v.v... và v.v... Vậy nhân cách là cái gì? Thông thường, người ta giải nghĩa Nhân là người, Cách là tư cách, là phẩm chất, là giá trị, là tư cách làm người... Như vậy Nhân cách là một thứ giá trị, phẩm chất đạo đức của mỗi con người được xây dựng và hình thành trong suốt thời gian con người đó tồn tại trong xã hội.
03/06/2019(Xem: 6363)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
06/05/2019(Xem: 5708)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
24/02/2019(Xem: 8096)
Pancariyavaḍḍhi - Năm pháp tăng thịnh cao quí: 1. Saddhā - Đức tin, là niềm tin chân chánh với Tam bảo Phật Pháp Tăng, nhân quả nghiệp báo,... ta nên làm cho tăng trưởng thường xuyên. 2. Sīla - Giới hạnh, là đạo đức nền tảng của hàng phật tử, ta nên an trú vào sự thanh tịnh giới hằng ngày. 3. Suta - Đa văn, là sự học hỏi nghiên cứu trau giồi và phát huy kiến thức mà ta tích luỹ trở nên phong phú. 4. Cāga - Xả thí, là sự rộng lượng phóng khoáng với tâm hồn bao dung cởi mở hay giúp đở những hoàn cảnh khó khăn; là sự dứt bỏ lòng bỏn xẻn, keo kiệt, ích kỷ để mọi người hoan hỷ gần gũi thân thiện. 5. Paññā - Trí tuệ, là sự hiểu biết nhận thức đúng đắn về lý Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên,... mà ta nên trau dồi thường xuyên.
15/01/2019(Xem: 4171)
Bạch Thầy Sám Hối là gì và sám hối có tiêu hết tội khổ không và sám hối như thế nào mới đúng cách? Đáp: Sám hối là biết xấu hổ, hối cải những tội lội của mình sau khi biết việc đó là sai lầm tội lỗi. Việc nhận ra các việc làm sai lầm tội lỗi đó là nhờ vào Trí Tuệ trong mỗi chúng ta. Nhưng nếu như chúng ta chưa đạt được Trí Tuệ như chư Phật hay Bồ Tát để biết được việc nào là đúng việc nào là sai lầm tội lỗi thì cần phải nhờ đến Phật Pháp soi rọi, đối chiếu các việc làm đó với lời dạy của Đức Phật mà đặc biệt là so sánh với 5 Tịnh Giới, 10 Thiện Giới. Nếu thấy phù hợp thì đó là việc làm thiện đưa đến Phước báu trong tương lai, nếu trái ngược thì biết đó là việc làm sai lầm tội lỗi đưa đến quả xấu trong tương lai.
07/09/2018(Xem: 4292)
Tất cả chúng sinh, đặc biệt là con người, có trí phân biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, tốt và xấu, điều gì có hại và có lợi. Vì có khả năng nhận thức và phân biệt các loại cảm giác khác nhau nên chúng ta đều giống nhau, vì chúng ta đều muốn được hạnh phúc và không muốn khổ đau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567