Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

16/02/201115:25(Xem: 4278)
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

BÓNG TRÚC BÊN THỀM
Tâm Chơn

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

Đang định ra về thì trời đổ mưa. Mưa ào ào như trút nước. Thành ra, không cần bạn phải lên tiếng mời nán lại, tôi cũng ngoan ngoãn ngồi chờ tạnh mưa. Thế mới hay “vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” - mưa không có then chốt mà có thể lưu giữ chân người khách!

Mà lạ! Mỗi khi gặp tình cảnh như thế là tôi nhớ ngay tới câu nói ấy. Dường như nó phục kích sẵn ở đâu đó đợi chờ thời cơ thuận lợi nhảy ra chộp liền. Như chiều này vậy, bỗng dưng mà nhớ! Cho nên, dù cũ kỹ rồi, tôi cũng muốn được nhắc lại giai thoại của câu đối trên để miên man cùng bạn. Coi như nhen chút lửa hồng sưởi ấm giữa trời mưa gió vậy!

Chuyện là thế này, Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc (làng Me), huyện Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), Bắc Ninh. Ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482, mất năm nào không rõ. Lúc nhỏ ông rất thông minh, mới 16 tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vở, sau đỗ Trạng Nguyên, nên tục gọi là Trạng Me.

Một hôm đang đi học ở trường, thầy học là Thượng thư Đàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời sập mưa, học trò đều phải ngồi lại. Thầy Huy nhân thấy vậy, bèn ra một câu đối để học trò cùng đối cho vui:

Vũ vô kiềm toả năng lưu khách.
(雨無鈐鎖能留客)

Nghĩa là: Mưa không có then khoá mà giữ được khách.

Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
(色不波濤易溺人)

Nghĩa là: Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta.

Thầy Huy xem xong khen rằng: “Câu đối này hay lắm, giọng văn này có thể đỗ Trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại đến sự nghiệp!”

Tiếp đó, một người học trò tên là Nguyễn Chiêu Huấn lại đối:

Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân.
(月有彎弓不射人)

Nghĩa là: Mặt trăng giống cái cung mà chẳng bắn ai.

Thầy Huy phê: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hoà, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn!”

Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng:

Phấn bất uy quyền dị sử nhân.

(糞不威權易使人)

Nghĩa là: Phân cứt chẳng uy quyền gì mà dễ sai khiến người.

Thầy Huy phê: “Sau giàu sang nhưng là hạng bỉ lậu!”

Quả nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh thi đỗ thủ khoa, rồi đỗ Trạng Nguyên đời Vua Lê Uy Mục (1508), làm quan lễ bộ Thượng thư, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở kinh thành mà đến ô danh bại giá. Còn Chiêu Huấn chỉ đỗ Bảng Nhãn nhưng làm quan và sống yên ổn, không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi.

•••

Thật vậy! Gốc rễ của khổ đau hay con đường đưa tới an vui, hạnh phúc đa phần đều có mầm mống từ sự vọng khởi của tâm ý. Mà trong tâm ý của mỗi con người đều có sẵn những hạt giống tốt lẫn hạt giống xấu. Đến khi gặp duyên thích hợp thì nó đâm chồi nảy lộc, phát triển xanh tươi. Do đó, nếu chúng ta không thực tập quán chiếu, nhìn sâu để chuyển hóa, gột rửa những tâm niệm xấu ác thì cứ y như rằng vào một ngày không xa chúng ta sẽ gặt hái hậu quả theo cái nhân ban đầu mà người đời thường cho là số phận hay định mệnh. Như một triết gia cũng đã nói: “Tư tưởng của ta ra sao thì đời ta như vậy. Tư tưởng của ta xếp đặt cuộc đời và quyết định tương lai ta.”

Vâng! Đến đây, tôi cũng xin được nhắc lại lời dạy của đức Phật trong kinh Pháp Cú:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.”
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình.”
(Kinh Pháp cú, kệ số 1 và 2, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)

Như vậy, mọi hành động đều do tâm ý tạo nên. Chính tâm ý sẽ điều khiển và tạo tác các nghiệp thiện ác thông qua thân khẩu ý. Thân khẩu ý thiện sẽ tạo nghiệp thiện và đưa đến kết quả thiện lành, hạnh phúc. Ngược lại, thân khẩu ý bất thiện sẽ kết thành nghiệp dữ và đưa đến quả báo xấu, khổ đau. Cho nên, để có một đời sống an lạc, một tương lai tốt đẹp, chúng ta phải tu tập chuyển hóa ngay nơi tâm ý của mình.

Nói chung, chính tâm ý đã dẫn dắt con người theo hai lối rẽ tích cực và tiêu cực. Để rồi chính tự thân con người phải chịu trách nhiệm về tất cả những hậu quả tốt xấu do hành vi của mình tạo ra. Và chỉ chính con người là tự ban thưởng hay tự trừng phạt mình bằng những hành động của chính mình mà thôi.

“Tự mình, điều ác làm,
Tự mình, làm nhiễm ô.
Tự mình, ác không làm,
Tự mình, làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai!”
(Kinh Pháp cú, kệ số 165, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2011(Xem: 4560)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổ và cách sống an vui hạnh phúc...
10/02/2011(Xem: 4962)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
20/01/2011(Xem: 7172)
Nguyên tác: Mindfulness with Breathing - Unveiling the secrets of life (A manual for serious beginners). Giác niệm về hơi thở - Phát hiện các bí ẩn của đời sống (Thủ bản cho các bạn Phật tử mới quyết tâm tu học). Nguyên tác Thái ngữ: Bhikkhu Buddhadasa (1986). Bản dịch Anh ngữ: Bhikkhu Santikaro (1988). Bản dịch Việt ngữ: Cư sĩ Thiện Nhựt (2004).
20/01/2011(Xem: 3168)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác. Bài nghiên cứu của Kaelyn Stiles nhằm dẫn chứng và phân tích ý nghĩa về sự phổ biến nổi bật của thiền định trên đất Mỹ và nhận diện những nhân tố góp phần vào trào lưu này. Bài viết chủ yếu trình bày sự giao thoa của chánh niệm và tôn giáo, so sánh hình thức nhập thế của chánh niệm đối với cả hai lối hành thiền trong đạo phật và đạo Chúa tại Mỹ. Tác gỉa rất phấn khởi khi thuyết trình về hai khía cạnh có vẻ tương phản nhau giữa tôn giáo và khoa học liên quan đến thiền và tâm.
20/01/2011(Xem: 8253)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
12/01/2011(Xem: 6071)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
07/01/2011(Xem: 6965)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
30/12/2010(Xem: 2445)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
30/12/2010(Xem: 3560)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
29/12/2010(Xem: 4562)
Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. Bằng trí tuệ siêu việt của bậc giác ngộ đã khai thị cho chúng ta thấy được muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian này đều là mộng ảo hư huyễn giả tạm, như bọt sóng, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp, tạm bợ vô thường không tồn tại lâu dài, vật lớn như sơn hà đại địa cho đến thân mạng cũng đều như vậy, tất cả đều phải tuân theo một qui luật chung là Thành Trụ Hoại Không hay Sanh Trụ Dị Diệt. Đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, không đáng để tham luyến khổ đau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567