Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Địa ngục

20/06/201318:32(Xem: 7360)
26. Địa ngục

Dòng pháp Quán Thế Âm

26. Địa ngục

Ngọc Nữ

Nguồn: Ngọc Nữ (ghi chép)

Ðịa ngục!

Chúng là hình bóng của đau khổ và Địa ngục đã đương nhiên trở thành một đối tượng cẩn mật trong trái tim trí tuệ của Ðịa Tạng Vượng Bồ Tát với thệ nguyện vang lừng 3 cõi:

"Ðịa ngục vị không – thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận – phương chứng Bồ Ðề"

Ðịa ngục! Hôm nay, ta sẽ giảng cho con nghe thế nào là Ðịa ngục?

Khi một chúng sanh trong một phút giây nào đó chợt thấy mình có mặt giữa cuộc đời chợt nhìn lại mình trên hành trình sinh tử, và bắt đầu băn khoăn về thân phận thì cũng từ lúc ấy Ðịa ngục là hình ảnh rõ ràng dần trong ý thức. Ðó là những ý niệm mơ hồ đậm nhạt về nỗi đau khổ xen lẫn trong chập chùng niệm tưởng trong biết bao ước mơ về danh lợi, hạnh phúc.

Phải chăng ý thức con người tạo nên Ðịa ngục hay tôi khổ chỉ vì tôi cho rằng đời là bể khổ. Xa hơn nữa, có phải chăng ở thế giới bên kia các thảm cảnh dầu sôi, lửa bỏng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng phóng đại? và tại sao ở các cõi trời phi tưởng, Địa ngục vẫn theo đuổi chúng sanh như hình với bóng? Vậy thì địa ngục khởi đầu và kết thúc nơi đâu? Thật có hay không thật có hoặc do phủ nhận, xác nhận mà địa ngục tồn tại hay diệt vong? Con ơi! Dù cho con chưa một lần nghĩ đến, Ðịa ngục đã sừng sững nơi tâm tư bao giờ, âm ỉ trong những nổi buồn không tên, thiêu đốt tâm hồn trong dục vọng, vang động không nguôi trong biết bao điều dang dở của cơn mộng đời. Và không chỉ thế, còn vây hãm lấy con ngay cả trong niềm vui tưởng chừng như bất tận. Con đã từng nghe về các cõi Trời, thọ mạng chúng sanh nơi ấy dài không kể xiết, hoan lạc chẳng lúc nào vơi. Nhưng là gì, nếu không là Ðịa ngục khi nỗi lo âu về tương lai bất ổn của niềm hoan lạc ấy vẫn thường trực ẩn núp trong lòng. Vì có thọ mạng dài nào mà không kết thúc. Như vậy, địa ngục là biểu tượng của đau khổ. Nhưng con hiểu Ðịa ngục theo nghĩa nào?

Nước mắt ta không ngừng tuôn rơi, dù chỉ còn một sinh linh phải đọa đày. Không có Địa ngục nào được xem là nhẹ, không có khổ đau nào không đáng kể, không một chúng sanh nào ở nơi bất kỳ cảnh giới nào mà không hít thở bầu không khí bất an, vô thường.

Vô lượng chúng sanh không thể chỉ hiểu là vô lượng sinh mệnh, mà còn phải hiểu là vô lượng sinh tử xảy ra trong một kiếp sống. Thế nên khi nói một chúng sanh được thành Phật, vô lượng chúng sanh được giải thoát chính là nói về thật nghĩa bình đẳng.

Địa ngục ở đâu? Ở nơi nào mà con trụ tâm, dù con trụ vào Niết Bàn tối thượng. Khi tâm con-dòng sinh hóa thường hằng ngưng đọng lại, tâm ấy đã xa lìa tự tánh của muôn pháp, tâm ấy hóa thành chủ khách, mở đầu cho một chuỗi niệm tưởng hư vọng đăng đẳng liền nhau muôn kiếp sống. Trụ tâm là Ngã, vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của Ngã. Chủ thể mà con tưởng lầm là mình, chỉ là màn sương khói vô minh che phủ chân tánh. Khách thể mà con tưởng lầm là khác mình thật ra chỉ là muôn vàn ảo ảnh biến hiện trong màn vô minh ấy. Chủ thể và khách thể đoạn diệt, thăng trầm theo nghiệp quả. Từ đó cái mà người ta gọi là định mệnh của con chính là định mệnh của Nghiệp và Nghiệp là sản phẩm của trụ tâm, của tâm bất định, tâm phân biệt. Nghiệp là Ngã đấy.

Trong vòng lẫn quẫn mê lầm đó, Ðịa ngục hiện diện trong mỗi thân phận chúng sanh dù khắt khe nhưng rất công bằng. Cho nên, hiểu Ðịnh mệnh như người đời thường hiểu là sai lầm vô cùng lớn. Từ đó, nãy sinh 2 thái độ, hoặc đối kháng, đấu tranh để vượt qua số phận bằng tất cả sức lực bình sinh mà thắng hay bại đều đắp đổi bằng mất mát của mình hay của kẻ khác. Ðó là Ác, được ngụy trang bằng ngôn từ hoa mỹ, được bào chữa bởi mọi điều nhân danh. Không ai mà không thích cuộc đời, đã cướp đoạt của mình sự trong sáng ban sơ. Nhưng dòng đời tự nó vẫn luôn luôn tuôn chảy theo quy luật tự nhiên của vũ trụ mà vũ trụ là chí thiện. Đấu tranh, đối kháng như thế, không phải là sinh tồn mà là tự hũy. Ðó là chấp Đoạn. Hoặc xuôi tay theo định mệnh, như thể định mệnh là một thành lũy nặng nề, kiên cố, vây chặt thân phận tối tăm, bé nhỏ của mình. Tôi sinh ra đời như thế, lìa đời cũng sẽ như thế, chẳng có gì đáng vui hay đáng buồn. Tôi và Ðau khổ chấp nhận nhau như là một đôi bạn song hành?

Nhưng có thật đó là sự an ổn hay không? Ðó là an ổn thua vì không thể thắng. Ðó là chấp nhận một kiếp sống lê thê, lưu đày, chấp nhận chết vĩnh viễn–Trong khi chết là điều không thể có, cũng là Ác vì kẻ ấy đã phủ nhận sự hiện diện thiêng liêng của mình, đồng thời phủ nhận cả thế giới chung quanh. Ðó là chấp thường.

Khác với thái độ của một người thức tỉnh, không chấp nhận sự phi lý muôn thuở của thân phận mình trong luân hồi, nghiệp quả. Dành tất cả nổ lực cho một hành trình về phía mặt trời, dưới giông tố tơi bời của Nghiệp, dành đời mình cho bao cuộc hoá sinh, để đi đến cuộc hoá sinh vĩ đại cuối cùng là giải thoát.

Hai thái độ trên, do đó đều không ổn thoả, đều là vong thân, đều là nền tảng của bao nền triết học hiện thời, không có định mệnh, chỉ có định nghiệp, Ðịnh nghiệp là Ngã, Ngã là huyễn mộng. Hiểu như thế, thay vì phải gian truân vô ích vì nhân thế, con sẽ định hướng cuộc đời, xứng đáng với sự có mặt của mình. Không ai có thể chạy trốn Ðịnh nghiệp, làm sao có thể chạy trốn chính mình, cũng không ai có thể phán xữ, hay đặt để cho ai một Ðịa ngục, nếu tâm người đó không sẵn sàng bước vào. Lại càng không một ai có thể cứu thoát cho ai. Cuối cùng, Địa ngục cũng không là nơi giam giữ chúng sanh đời đời như nhiều người thường thấy nghĩ. Hình ảnh ma vương, quỷ vương canh giữ tội nhân, cùng những khổ hình nơi 12 cửa ngục, chính là sự phóng rọi, biến hiện và trói buộc của Nghiệp cảm. Mỗi người đều có một ngài Diêm chúa nơi tâm mà không tự biết, đó là sự lên tiếng mãnh liệt của Chân tánh, sự phán xét sau cùng của Chí thiện.

Như xưa kia, miếng cơm tự tay Bồ Tát Mục Kiền Liên đến miệng Thanh Đề hoá thành viên sắt lửa, nhưng vào giây phút này đây, một Thanh Ðề nào đó đang phải chịu khổ hình nặng hơn, miếng cơm sẽ thành quả cầu gai lửa, không thể nhã ra mà phải nuốt vào, nuốt đến đâu, cái nóng bén nhọn chạy đến đó, quả cầu gai lửa lại hoá thành vô số quả cầu gai lửa khác cào xé và thiêu đốt toàn thân. Khi cơn nóng ấy tạm ngưng, cơn đói khủng khiếp lại dâng lên khiến tội nhân lại đòi ăn cơm, để chịu khổ hình tiếp tục. Nhưng cơm từ đâu mà có? Cũng như các khổ hình kia, cơm từ vọng thức, từ tham lam độc ác hoá thành. Ðiều đó cho con thấy, Nghiệp cảm của chúng sanh trong thời mạt thế sâu dầy biết bao.

Sao gọi là Ðịa ngục vô gián? Vì Ngã vô gián hay niệm tưởng mê vọng vô gián. Khi Ðức Thế Tôn thuyết về Ðịa ngục Ngài phương tiện phân biệt các cảnh giới mê ấy cùng các tội hình nặng nhẹ cốt để chúng sanh biết ghê sợ tội lỗi nơi mình mà từng bước hành thiện. Mục đích tối hậu của Ngài khi thị hiện nơi thế gian này là khai thị nghĩa rốt ráo của Địa ngục, khai thị tri kiến giải thoát giải quyết tận gốc rễ biển sợ hãi trong tâm tưởng chúng sanh.

Ðịa ngục là huyễn mộng vì Ngã huyễn mộng, thật tánh địa ngục là không, liễu ngộ thật nghĩa Ðịa ngục là liễu ngộ Niết Bàn. Thâm quán Ðịa ngục là bắt đầu hành trình về cõi Phật, là hành thâm Bát nhã Ba la mật, chính là nội quán.

Niết Bàn vô tướng, nên Ðịa ngục vô tướng. Niết Bàn không xứ sở, nên Ðịa ngục không xứ sở. Lại nữa, vì sao khi con niệm Ðịa ngục, Ðịa ngục hiện tiền. Khi con niệm Niết Bàn, Niết bàn lại không hiện hữu? vì niệm chính là Ngã. Vô niệm là nơi niệm mà không trụ cũng không lìa là vô ngã. Diệt Ngã là diệt mọi ý niệm về Ngã, phi Ngã, diệt cả ý niệm diệt. Ngã diệt tận, địa ngục liền diệt tận.

Ðó là đại định. Không phải tâm phân biệt thiện ác mà là tâm vượt qua, là tâm chí thiện nơi con, thể nhập vào đại dương mênh mông đồng nhất thể, bình đẳng với chư Phật, cũng là chư Phật tận độ chúng sanh. Khi ấy, dù con sống nơi Ðịa ngục, tâm thường lìa Ðịa ngục. Hiện tướng hoà cùng muôn khổ lụy của chúng sanh. Tâm thường lìa phiền não, vì con không còn có ý lựa chọn cho mình một định nghiệp, nên không một định nghiệp nào trói buộc được con.

Tâm thường lìa Địa ngục, không trụ Niết bàn, tâm vô trụ là Ðại Bát Niết Bàn.

Con hãy thâm quán Ðịa ngục–Quán đến bao giờ không còn thấy Địa ngục, không còn người quán, không còn thấy quán và không quán, khi ấy Địa ngục trong con hoá hiện Niết bàn, khi ấy khổ đau không bến bờ hạn lượng của chúng sanh nơi con hoá thành công đức vô lượng vô biên, được chư Phật 10 phương đồng khen ngợi.

Chính là đại nguyện của ta đã thành tựu vậy.

Tâm không vạn sự đều không
Tâm chơn vạn Pháp cũng đồng qui chơn!

(Pháp Bảo Ðàn Kinh)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2019(Xem: 5565)
DẪN NHẬP Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán. Vì thế đường tu quan trọng của họ là A-La-Hán đạo. Khi đạt được quả vị này thì các ngài nhập Niết-Bàn. Khi còn thân, thì gọi là Hữu-Dư-Y-Niết-Bàn. Trong thời gian này các ngài đi giáo hoá chúng sanh. Khi bỏ thân, thì nhập Vô-Dư-Y-Niết-Bàn không tái sanh nữa.
07/10/2019(Xem: 5155)
Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.
05/10/2019(Xem: 4125)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
05/10/2019(Xem: 5846)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tán có tính cách phê phán như: "Nhân cách của ông A thật là hoàn hảo" hay "Tư cách người đó không ra gì...." hoặc "Sống sa đoạ quá làm mất cả nhân cách" v.v... và v.v... Vậy nhân cách là cái gì? Thông thường, người ta giải nghĩa Nhân là người, Cách là tư cách, là phẩm chất, là giá trị, là tư cách làm người... Như vậy Nhân cách là một thứ giá trị, phẩm chất đạo đức của mỗi con người được xây dựng và hình thành trong suốt thời gian con người đó tồn tại trong xã hội.
03/06/2019(Xem: 6323)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
06/05/2019(Xem: 5684)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
24/02/2019(Xem: 8038)
Pancariyavaḍḍhi - Năm pháp tăng thịnh cao quí: 1. Saddhā - Đức tin, là niềm tin chân chánh với Tam bảo Phật Pháp Tăng, nhân quả nghiệp báo,... ta nên làm cho tăng trưởng thường xuyên. 2. Sīla - Giới hạnh, là đạo đức nền tảng của hàng phật tử, ta nên an trú vào sự thanh tịnh giới hằng ngày. 3. Suta - Đa văn, là sự học hỏi nghiên cứu trau giồi và phát huy kiến thức mà ta tích luỹ trở nên phong phú. 4. Cāga - Xả thí, là sự rộng lượng phóng khoáng với tâm hồn bao dung cởi mở hay giúp đở những hoàn cảnh khó khăn; là sự dứt bỏ lòng bỏn xẻn, keo kiệt, ích kỷ để mọi người hoan hỷ gần gũi thân thiện. 5. Paññā - Trí tuệ, là sự hiểu biết nhận thức đúng đắn về lý Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên,... mà ta nên trau dồi thường xuyên.
15/01/2019(Xem: 4146)
Bạch Thầy Sám Hối là gì và sám hối có tiêu hết tội khổ không và sám hối như thế nào mới đúng cách? Đáp: Sám hối là biết xấu hổ, hối cải những tội lội của mình sau khi biết việc đó là sai lầm tội lỗi. Việc nhận ra các việc làm sai lầm tội lỗi đó là nhờ vào Trí Tuệ trong mỗi chúng ta. Nhưng nếu như chúng ta chưa đạt được Trí Tuệ như chư Phật hay Bồ Tát để biết được việc nào là đúng việc nào là sai lầm tội lỗi thì cần phải nhờ đến Phật Pháp soi rọi, đối chiếu các việc làm đó với lời dạy của Đức Phật mà đặc biệt là so sánh với 5 Tịnh Giới, 10 Thiện Giới. Nếu thấy phù hợp thì đó là việc làm thiện đưa đến Phước báu trong tương lai, nếu trái ngược thì biết đó là việc làm sai lầm tội lỗi đưa đến quả xấu trong tương lai.
07/09/2018(Xem: 4276)
Tất cả chúng sinh, đặc biệt là con người, có trí phân biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, tốt và xấu, điều gì có hại và có lợi. Vì có khả năng nhận thức và phân biệt các loại cảm giác khác nhau nên chúng ta đều giống nhau, vì chúng ta đều muốn được hạnh phúc và không muốn khổ đau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567