Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 48: Người bồ-tát không bao giờ thoái lùi.

12/11/202120:05(Xem: 1486)
Bài 48: Người bồ-tát không bao giờ thoái lùi.


buddha_122

Lý Tưởng của người Bồ-tát

The Bodhisattva Ideal

***

Chương VII

 

Tam Bảo

 

***

                       

                        Bài 44 - Các cấp bậc của người bồ-tát

                        Bài 45 - Kalyana mitras hay các đồng đạo tâm linh

                        Bài 46 - Tam bảo

                        Bài 47 - Bốn thể loại bồ-tát

                        Bài 48 - Người bồ-tát không bao giờ thoái lùi.

                        Bài 49 - Người bồ-tát với tư cách pháp thân.  

                       

 

Bài 48

 

Người bồ tát không bao giờ thoái lui

 

 

             Cấp bậc thứ ba trong hệ thống thứ bậc của người bồ-tát là một cấp bậc không đánh dấu bởi một sự thăng tiến mới nào mà trái lại toàn bộ các cảm nhận của người bồ-tát đều bị đảo ngược. Tất cả mọi tín hiệu bình thường nói lên các cảm nhận cũng như các cách nhìn quen thuộc trước đây của người bồ tát về mọi sự vật đều bị lỗi thời, kể cả lòng từ bi nơi họ cũng vậy, cũng trở nên hết sức khó mô tả. Chẳng qua là vì cách nhìn của người bồ-tát vào sự hiện hữu đã trở thành khác hẳn (thật ra cấp bậc thứ ba của người bồ-tát là một cấp bậc hoàn toàn đổi mới, tạo ra cho họ một sự hiểu biết hoàn toàn mới lạ về thế giới và cả con người của chính họ, một sự hiểu biết đi ngược lại với sự hiểu biết mang tính cách nhị nguyên và quy ước của họ trước đây. Nhà sư Sangharakshita gọi sự hiểu biết mới lạ đó là một sự cảm nhận đảo ngược của người bồ-tát đối với hiện thực). Các thể loại (category) về cái tôi của mình và của các kẻ khác vụt trở thành một giấc mơ hay một ảo giác (sự khác biệt giữa các thể dạng về cái tôi của mình và của kẻ khác trở thành một cái gì đó không thật, hoàn toàn lu mờ hay giả tạo). Thế nhưng chính điều đó lại là cách xác nhận sự thăng tiến tâm linh của mình. Theo quan điểm của Đại thừa và nếu bạn là một người bồ-tát, thì điều sẽ cho thấy bạn đã vượt được điểm mốc "không còn quay trở lại nữa", tức là đã bước được vào bên trong cửa ngõ của dòng chảy (nếu nói theo Phật giáo Theravada). Thế nhưng trước khi bước được vào địa giới thứ tám (trong số mười địa giới / buhmi của người bồ-tát, theo quan điểm của Đại thừa) thì bạn vẫn có thể còn bị đánh lạc hướng trước lý tưởng của người bồ-tát. Chỉ khi nào bắt đầu bước được hẳn vào bên trong địa giới thứ tám, thì khi đó bạn mới thật sự trở thành một người bồ-tát không còn quay trở lại (không còn thoái lui). Điều đó cho thấy con đường rất dài. Trên đoạn đường đó vẫn còn rất nhiều hiểm nguy, tức là không những bạn có thể bị đánh lạc hướng trong cuộc sống tâm linh của mình, mà còn có thể rơi vào tình trạng tu tập mang tính cách cá nhân. Các nguy hiểm đó chính là sự buông bỏ quyết tâm cố gắng đạt được sự Giác ngộ vì sự an lành của tất cả chúng sinh, để chỉ biết nghĩ đến sự giác ngộ của cá nhân mình.   

 

            Dầu sao đi nữa, các bạn cũng nên hiểu rằng một khi đã bước theo lý tưởng của người bồ-tát một cách nghiêm chỉnh, thì lý tưởng đó sẽ trở thành cả một sự thách đố phi thường đối với các bạn. Niềm thiết tha đạt được Giác ngộ vì sự an lành của tất cả chúng sinh hầu giúp mình cảm nhận được lòng từ bi đối với họ, chính là ước nguyện của người bồ-tát. Thật hiển nhiên, điều đó cho thấy không những bạn sẽ phải tiếp cận với vô tận chúng sinh mà còn phải tỏ lộ cả lòng từ bi đối với những người mà sự tiếp xúc trước đây với họ từng gây ra đủ mọi thứ khó khăn cho mình. Phải nói rằng con người lắm khi rất khó chịu, đần độn, yếu đuối hoặc quá dại dột. Ngay cả đối với những người bồ-tát còn đang bước đi trên con đường, có nghĩa là trước khi đạt được địa giới thứ tám, đôi khi cũng có thể phó mặc những kẻ đang trong cảnh tuyệt vọng. Họ có thể tự nghĩ như thế này : "Tôi chẳng có cách nào khác giúp họ được cả. Thôi thì cứ mặc kệ họ, họ muốn làm gì thì làm, tôi chỉ biết nghĩ đến sự giải thoát cho cá nhân tôi mà thôi". Thế nhưng đối với chủ đích ban đầu của mình (có nghĩa là tu tập vì tất cả chúng sinh) thì điều đó sẽ là một sự thoái lui, một sự thất bại.    

 

                Vậy người bồ tát sẽ phải làm gì để không bị thoái lui? Đến một lúc nào đó sự thắc mắc trên đây có thể không đặt thành vấn đề đối với cá nhân mình (bởi vì trước khi đạt được thể dạng không còn thoái lui, thì tất nhiên mình hiểu rằng bất cứ lúc nào mình cũng có thể bị thoái lui, do đó mình sẽ không thắc mắc gì cả về điều này, thế nhưng sau khi đã đạt được thể dạng không thoái lui thì thắc mắc đó biết đâu cũng có thể hiện lên với mình), tuy nhiên ít nhất chúng ta cũng thử tìm hiểu xem kinh sách nói về điều này như thế nào. Nói chung khi một người bồ-tát đã thực hiện được sự trống không (tánh không) rộng lớn, thì sẽ không còn thoái lui nữa (khi đã quán thấy sâu xa được sự trống không của thế giới và của chính mình thì người bồ-tát sẽ không còn bám víu vào thế giới và cả chính mình). Như chúng ta đã thấy trên đây, yếu tố quan trọng nhất trong sự thực hiện về sự trống không đó chính là khía cạnh liên quan đến sự tách biệt (phân biệt) giữa những gì do điều kiện mà có (conditioned / duyên khởi, tức là những gì bị trói buộc bởi quy luật nguyên-nhân -hậu-quả trong nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo giữa mọi hiện tượng / interdependence) và phi điều kiện (unconditioned / phi duyên khởi, tức là thoát ra khỏi nguyên lý tương liên trên đây). Khi nào sự cảm nhận về sự trống không rộng lớn bùng lên với mình, thì chúng ta tất sẽ phải nhận thấy thật minh bạch sự tách biệt giữa hai thứ đó (do điều kiện mà có và phi điều kiện) cũng chỉ đơn giản là một phương cách tiện lợi (giúp mình phân biệt giữa hai thứ đó : do điều kiện và phi điều kiện), nhưng không mang một giá trị nào cả trên phương diện tối hậu. Khi đi sâu vào những gì "do điều kiện mà có" (tức là tìm hiểu thật sâu xa về các hiện tượng chi phối bởi nguyên lý tương liên) thì người ta sẽ chạm trán với những gì "phi điều kiện" (phi duyên khởi, vượt thoát khỏi quy luật nguyên-nhân-hậu-quả), và ngược lại nếu đi sâu vào những gì "phi điều kiện" thì người ta sẽ chạm trán với những gì "do điều kiện mà có" (hình tướng là trống không, trống không là hình tướng / sắc tức thị không, không tức thị sắc)

 

            Chủ trương cá nhân trong lãnh vực tâm linh (tức là tu tập cho riêng mình) được dựa vào cách suy nghĩ nhị nguyên (dualistic thinking), một sự suy nghĩ cho rằng có một cái gì đó phi điều kiên "ở trên cao" hay "ở tận phía đằng kia", và người ta ước mong các nơi đó sẽ là một lối thoát (một cửa ngõ) giúp mình thoát ra khỏi những gì do điều kiện mà có. Thế nhưng khi thực hiện được sự trống không rộng lớn (tánh không), thì các bạn sẽ nhận thấy không đúng là như vậy. Các bạn sẽ nhận thấy mọi vấn đề, chẳng hạn như giữa những gì do điều kiện mà có (conditioned / do duyên khởi mà sinh ra) và phi điều kiện (unconditioned / không do duyên khởi mà có), hoặc giữa "nơi này" và "nơi kia", đều không thật. Cũng tương tự như vây, quyết định bước đi một mình hay cùng đi với nhiều người khác, hoặc đi ngược về phía sau, hay đứng dừng lại, thì cũng chẳng khác gì như một trò chơi, một giấc mơ hay một sự giả đò.

 

            Các bạn thức tỉnh trước cơn mơ của sự suy nghĩ nhị nguyên để trông thấy ánh sáng và thực thể (reality / thực tánh) của một tâm thức đơn thuần, một tâm thức phi đối nghịch, hoặc các bạn cũng có thể gọi điều đó bằng bất cứ một thuật ngữ nào khác tùy theo sở thích của các bạn" (tâm thức phi đối nghịch là một tâm thức trong đó tất cả các hình thức nhị nguyên: chủ thể và đối tượng, mình và kẻ khác, nơi này và nơi kia, trên trời và dưới đất, nirvana và samsara, v.v, đều bị xóa mờ và hoà lẫn với nhau, nói một cách khác là tất cả cũng "chỉ là như thế" / tathagata), Các bạn sẽ nhận thấy trong những nơi tột cùng của tâm thức mình, những gì "do điều kiện" [mà có] cũng là những gì "phi điều kiện". Bản Tâm Kinh nói lên sự kiện đó bằng các thuật ngữ như sau : rupa (thân xác hay hình tướng)shunyata (sự trống không hay tánh không)shunyata cũng là rupa (hình tướng là trống không, trống không là hình tướng / sắc tức thị không không tức thị sắc). [Tóm lại] chẳng có bất cứ một thứ gì để mình phải lẩn tránh nó, và cũng chẳng có một nơi nào khác giúp mình lẩn tránh. Các bạn sẽ nhận thấy sự phi lý hoàn toàn của ý niệm về sự giải thoát mang tính cách cá nhân. Các bạn sẽ không thể nào còn rơi vào sự giải thoát cá nhân được nữa, bởi vì chẳng có một sự giải thoát cá nhân nào cả để mà rơi vào đó. Sự thực hiện (quán thấy) đó sẽ khiến người bồ-tát "không còn thoái lui" (không còn thụt lùi hay quay trở lại nữa).               

 

            Nếu tò mò muốn biết thêm xem mình đã đạt được cấp bậc không còn thoái lui hay chưa, thì trong tập kinh Hoàn thiện Trí tuệ (Prajnaparamita sutra / Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa) có nêu lên nhiểu cách giúp chúng ta có thể nhận thấy được điều đó. Tập kinh này cho biết khi đã trở thành một "người bồ-tát không còn thoái lui", thì khi đó nếu có ai hỏi mình về bản chất của mục đích tối hậu [trong sự tu tập của mình] là gì, thì mình sẽ không còn sử dụng các thuật ngữ như nirvana (niết-bàn) hay sự giải thoát cá nhân để trả lời họ nữa, mà nhất thiết chỉ nói với họ về thể dạng từ bi trong cuộc sống tâm linh của mình (câu này có nghĩa là khi nào mình đã trở thành một người bồ-tát không còn thoái lui và nếu có ai hỏi mình về mục đích tối hậu trong việc tu tập của mình là gì, thì khi đó mình sẽ không còn sử dụng các thuật ngữ mang tính cách nhị nguyên và đối nghịch để trả lời họ mà chỉ nêu lên cho họ biết là mục đích của sự tu tập đó của mình là lòng từ bi vô biên và sâu kín bên trong con tim và tâm thức mình). Ngoài ra chúng ta cũng có đủ mọi thứ ước mơ mang tính cách khuôn mẫu (archetypal / mẫu mực, lý tưởng), và qua các ước mơ đó biết đâu chúng ta cũng có thể cảm thấy mình trở thành một vị phật, đứng ra thuyết giảng dharma cho các vị bồ-tát và những người tu tập paramita (luyện tập các phẩm tính hoàn hảo) đang vây quanh mình. Hoặc đặc biệt hơn nữa, chúng ta cũng có thể cảm thấy mình đang hy sinh đời mình vì tất cả chúng sinh, thế nhưng mình vẫn cứ cảm thấy thật hạnh phúc trong lòng. Sau hết cũng có một dấu hiệu khác báo cho mình biết là mình không còn thoái lui nữa, đó là khi nào đã trở thành một người bồ-tát không còn thoái lui, thì chính sự thắc mắc (tự hỏi) đó sẽ không còn hiện lên trong tâm thức mình nữa.       

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 10.10.21

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

 

(còn tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2010(Xem: 2810)
Mọi người Phật tử khi nhắc đến Đức Quán Thế Âm (Avalokites) nghĩa là lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời , người Việt Nam dù là Phật tử hay chưa phải là Phật tử đều có một khái niệm chung là vị Bồ tát hay cứu khổ cứu nạn cho mọi người, điều này đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người và Quán Thế Âm trở thành một biểu trưng cho lòng từ bi của Phật giáo. Quán Thế Âm dân gian ta gọi tắt là Quán Am, nhìn chung Ngài là vị Bồ tát thể hiện lòng Bi, một trong hai đức của Phật tánh: Văn Thù biểu trưng cho trí tuệ thì Quán Thế Âm biểu trưng cho đức từ bi của Phật. Đã từ lâu, Đức Quán Thế Âm được nhiều người Việt Nam tôn kính và thờ phụng tin tưởng rất phổ biến , nhất là trong lúc gặp khó khăn hoạn nạn đều hướng về Ngài như là một vị cứu tinh vì danh hiệu Ngài là "Cứu khổ cứu nạn". Những năm gần đây, niềm tin này lại được bộc lộ qua việc thờ Quán Thế Âm ở tại tư gia nhất là" lộ thiên" (ngoài trời nơi sân thượng). Việc thờ Quán Thế Âm là một niềm tin mang tinh thầnTừ bi của Đạo Phật nó còn là biể
03/10/2010(Xem: 3130)
Hành Trì Pháp Quán Thế Âm
26/09/2010(Xem: 9202)
Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán. Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi...
22/09/2010(Xem: 11519)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
21/09/2010(Xem: 3346)
Chúng ta nhìn thấy trên đây bức hình của pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt bằng gỗ sơn son thiếp vàng, cao 3 mét 60 đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, Việt Nam. Pho tượng nầy đã được phục chế theo mẫu của pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang được trân quý và giữ gìn tại Chùa Ninh Phúc còn gọi là Chùa Bút Tháp tại tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Những đường nét tinh tế, điêu luyện và sự bố cục cân đối trong tư thế ngồi rất hùng tráng của pho tượng đã đạt đến đỉnh cao mỹ thuật của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ 17. Đã nhiều lần, pho tượng đã được đem đi ra ngoại quốc để triển lãm. Hiện nay, pho tượng nầy đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc hàng nghìn pho tượng lớn nhỏ khác nhau bởi nhiều điêu khắc gia tài ba lỗi lạc đã được thỉnh về tôn trí rất nhiều nơi trong nước cũng như rất nhiều chùa viện tại hải ngoại. (Hình trên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (cao 3.60 mét) đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội)
17/09/2010(Xem: 5442)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
17/09/2010(Xem: 5677)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát. Theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, 50 Ngôi vị tu tập của Bồ Tát gồm có: Thập Tín Vị, Thập Trụ Vị, Thập Hạnh Vị, Thập Hồi Hướng Vị và Thập Địa Vị.
16/09/2010(Xem: 3692)
Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
31/08/2010(Xem: 7246)
Vị Đại Sỹ luôn lắng nghe âm thanh của mọi loài chúng sanh mà cứu độ, là nơi nương tựa cho bao chúng sanh trong cơn đau khổ, nguy cấp, hiểm họa, tật bệnh, đói nghèo,...Chúng con xin tập lắng nghe theo hạnh của Ngài, biết lắng tai nghe với sự chú tâm và thành khẩn, biết chia sẻ phước báu của mình để cho cuộc đời bớt khổ. Nguyện cho Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Tất cả mọi người Hiểu và Thương quý nhau trong suối nguồn vi diệu pháp.
28/08/2010(Xem: 9397)
Hình Ảnh: Đại Bi Xuất Tướng Ban Biên Tập quangduc.com kính giới thiệu đến quý đọc giả hình ảnh Đại Bi xuất tướng của Pháp sư Y Lâm người Đài Loan vẽ về hình tượng 88 thân Quán Thế Âm Bồ Tát theo Đại Bi thần chú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567