Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thập Đại Đệ Tử - Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật

23/02/201111:03(Xem: 5967)
Thập Đại Đệ Tử - Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật
Buddha_3
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ 十大弟子
Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật
Tác Giả: HT. Thích Tinh Vân - Dịch Giả: Như Đức

01. Xá Lợi Phất(zh. 舍利弗, sa. śāriputra, bo. ཤཱ་རིའི་བུ་): Trí huệ đệ nhất, đệ tử quan trọng nhất của Phật trong các kinh Nguyên Thủy (sa. hīnayāna)icn_pdf
02. Mục Kiền Liên(zh. 目犍連, sa. mahāmaudgalyāyana, bo. མོའུ་འགལ་གྱི་བུ་): Thần thông đệ nhất, hay đi đôi với Xá-lợi-phất icn_pdf
03. Phú Lâu Na(zh. 富樓那, sa. pūrṇa, bo. གང་པོ་): Thuyết Pháp đệ nhất icn_pdf
04. Tu Bồ Đề(zh. 須菩提, sa. subhūti, bo. རབ་འབྱོར་): Giải Không (sa. śūnyatā) đệ nhất. Tu-bồ-đề thường xuất hiện trong kinh điển hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. icn_pdf
05. Ca Chiên Diên(zh. 迦旃延, sa. katyāyana, bo. ཀ་ཏྱའི་བུ་): Biện luận đệ nhất
06. Ma-ha-ca-diếp(zh. 摩訶迦葉, sa. mahākāśyapa, bo. འོད་སྲུང་ཆེན་པོ་): Đầu-đà đệ nhất, được xem là Sơ tổ Thiền tông Ấn Độ icn_pdf
07. A Na Luật(阿那律, sa. aniruddha, bo. མ་འགགས་པ་): Thiên nhãn đệ nhất icn_pdf
08. Ưu Ba Ly(優波離, sa. upāli, bo. ཉེ་བར་འཁོར་): Giới luật đệ nhất icn_pdf
09. A Nan Đà(zh. 阿難陀, sa. ānanda, bo. ཀུན་དགའ་བོ་): Đa văn đệ nhất, người “nghe và nhớ nhiều nhất”, được xem là Nhị tổ Thiền tông Ấn Độ. A-nan-đà hay được trình bày trong tranh tượng đứng bên cạnh Phật cùng với Ma-ha-ca-diếp
10. La Hầu La(羅睺羅, sa. rāhula, bo. སྒྲ་གཅན་འཛིན་): Mật hạnh đệ nhất icn_pdf


LỜI DỊCH GIẢ

thapdaidetu-biaỞ mức độ tín ngưỡng dân gian, sức gia trì thuộc về tha lực mà không phải là tự lực. Đây chính là dùng tâm lực, nguyện lực và chú lực của người gia trì trực tiếp giải quyết vấn đề cho người khác. Điều này được dân chúng nói chung tin tưởng và mong cầu. Vì như vậy không cần phải tự mình tu tập, cũng không cần phải trả một giá đắt nào mà có thể giải quyết được nguy cơ to lớn. Đây là lý do vì sao tín ngưỡng quỉ thần trong dân gian được phổ biến như vậy. Song gia trì theo cách ấy mãi, chỉ có thể ngăn tai họa trong một lúc, mà không thể giải quyết vấn đề triệt để và vĩnh viễn. Đây cũng giống như nương tựa thế lực của nhà quyền thế, để tránh sự truy tìm của chủ nợ hay xã hội đen. Một mai thế lực đó không còn nữa, tai nạn sẽ xảy ra, mà còn hung hiểm hơn nhiều.

Phật Pháp không như vậy, nếu bị oan nghiệt túc trái quấy nhiễu, làm chướng ngại, thì người gia trì sẽ đem tâm từ bi, sức tu trì của mình ra để cảm hóa, khuyên dắt những oan gia trái chủ đó, khiến họ không còn tâm oán hận, chấp trước, báo thù nữa. Oan gia trái chủ nhân đó sẽ chuyển sinh vào đường lành, người được gia trì nhờ đó được tiêu tai giải nạn, kiết tường như nguyện. Song sau đó đương sự phải qui y Tam Bảo, tu học Phật Pháp, tạo phúc cho chúng

Ứng nhu cầu đại chúng, nên không có phủ định và phản đối lòng tin và tác dụng của việc gia trì.

Công năng gia trì đến từ chú lực, nguyện lực và tâm lực. Người trì chú công phu thâm hậu, bản thân chú ngữ sẽ sinh ra sức cảm ứng, có thể cảm thông quỉ thần, giúp đỡ và gia trì cho người khác. Người có nguyện lực mạnh, có thể dùng tâm phát nguyện cảm thông chư Phật và Bồ-tát, cho đến Hộ Phápm long thiên hộ trì, cứu giúp. Người có tâm lực mạnh, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến Tâm Niệm của người được gia trì, làm mạnh tthêm ý chí, chuyển đổi quan niệm cho họ. Bảo rằng gặp hung hóa kiết, tiêu tai trị bệnh, đều do sức mạnh tâm linh làm chủ.

Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn, tăng cường dũng khí và nghị lực của họ để đối diện với thực tế, mà không phải là tránh nợ, trốn lánh hiện thực. Đương nhiên nhờ sức gia trì có thể làm giảm đi áp lực và chướng ngại trước mắt. Sau đó mượn sức gia trì làm đà biến thành sức mạnh tự tu, hóa giải hết áp lực và chướng ngại.

Chánh, đâu là tín ngưỡng dân gian, những gì là Chánh Pháp, những gì là phi Pháp; và nhất là đính chánh những quan niệm lệch lạc, sai lầm về Phật giáo. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tự tin, vững bước trên nẻo đường học Phật, mà không sợ sa lạc vào ngã rẽ tà kiến. Vì tính chất đặc thù của quyển sách, chúng ta có thể đọc nó từ đầu đến cuối, hay xem mục lục, chọn đọc trước những vấn đề mà quan tâm thắc mắc.

Nhận thấy giá trị và lợi ích của quyển sách này, dịch giả đã phát tâm dịch ra Việt văn để kết Pháp duyên cùng tất cả mọi người. Kính nguyện những ai có duyên đọc được, chánh kiến, chánh tín chưa sinh sẽ sinh; chánh kiến, chánh tín đã sinh càng kiên cố; Bồ đề tâm tăng trưởng, bất thoái cho đến ngày viên thành Phật đạo.

Nghiên Cứu Sở Phật Học Trung Hoa
ngày 19.09.1999
Dịch giả cẩn chí




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2017(Xem: 9202)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
28/07/2016(Xem: 4224)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 9022)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
09/04/2016(Xem: 15408)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4571)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 8828)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 9623)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 14951)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7179)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567