Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thập Đại Đệ Tử - Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật

23/02/201111:03(Xem: 6374)
Thập Đại Đệ Tử - Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật
Buddha_3
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ 十大弟子
Sự Tích Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật
Tác Giả: HT. Thích Tinh Vân - Dịch Giả: Như Đức

01. Xá Lợi Phất(zh. 舍利弗, sa. śāriputra, bo. ཤཱ་རིའི་བུ་): Trí huệ đệ nhất, đệ tử quan trọng nhất của Phật trong các kinh Nguyên Thủy (sa. hīnayāna)icn_pdf
02. Mục Kiền Liên(zh. 目犍連, sa. mahāmaudgalyāyana, bo. མོའུ་འགལ་གྱི་བུ་): Thần thông đệ nhất, hay đi đôi với Xá-lợi-phất icn_pdf
03. Phú Lâu Na(zh. 富樓那, sa. pūrṇa, bo. གང་པོ་): Thuyết Pháp đệ nhất icn_pdf
04. Tu Bồ Đề(zh. 須菩提, sa. subhūti, bo. རབ་འབྱོར་): Giải Không (sa. śūnyatā) đệ nhất. Tu-bồ-đề thường xuất hiện trong kinh điển hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. icn_pdf
05. Ca Chiên Diên(zh. 迦旃延, sa. katyāyana, bo. ཀ་ཏྱའི་བུ་): Biện luận đệ nhất
06. Ma-ha-ca-diếp(zh. 摩訶迦葉, sa. mahākāśyapa, bo. འོད་སྲུང་ཆེན་པོ་): Đầu-đà đệ nhất, được xem là Sơ tổ Thiền tông Ấn Độ icn_pdf
07. A Na Luật(阿那律, sa. aniruddha, bo. མ་འགགས་པ་): Thiên nhãn đệ nhất icn_pdf
08. Ưu Ba Ly(優波離, sa. upāli, bo. ཉེ་བར་འཁོར་): Giới luật đệ nhất icn_pdf
09. A Nan Đà(zh. 阿難陀, sa. ānanda, bo. ཀུན་དགའ་བོ་): Đa văn đệ nhất, người “nghe và nhớ nhiều nhất”, được xem là Nhị tổ Thiền tông Ấn Độ. A-nan-đà hay được trình bày trong tranh tượng đứng bên cạnh Phật cùng với Ma-ha-ca-diếp
10. La Hầu La(羅睺羅, sa. rāhula, bo. སྒྲ་གཅན་འཛིན་): Mật hạnh đệ nhất icn_pdf


LỜI DỊCH GIẢ

thapdaidetu-biaỞ mức độ tín ngưỡng dân gian, sức gia trì thuộc về tha lực mà không phải là tự lực. Đây chính là dùng tâm lực, nguyện lực và chú lực của người gia trì trực tiếp giải quyết vấn đề cho người khác. Điều này được dân chúng nói chung tin tưởng và mong cầu. Vì như vậy không cần phải tự mình tu tập, cũng không cần phải trả một giá đắt nào mà có thể giải quyết được nguy cơ to lớn. Đây là lý do vì sao tín ngưỡng quỉ thần trong dân gian được phổ biến như vậy. Song gia trì theo cách ấy mãi, chỉ có thể ngăn tai họa trong một lúc, mà không thể giải quyết vấn đề triệt để và vĩnh viễn. Đây cũng giống như nương tựa thế lực của nhà quyền thế, để tránh sự truy tìm của chủ nợ hay xã hội đen. Một mai thế lực đó không còn nữa, tai nạn sẽ xảy ra, mà còn hung hiểm hơn nhiều.

Phật Pháp không như vậy, nếu bị oan nghiệt túc trái quấy nhiễu, làm chướng ngại, thì người gia trì sẽ đem tâm từ bi, sức tu trì của mình ra để cảm hóa, khuyên dắt những oan gia trái chủ đó, khiến họ không còn tâm oán hận, chấp trước, báo thù nữa. Oan gia trái chủ nhân đó sẽ chuyển sinh vào đường lành, người được gia trì nhờ đó được tiêu tai giải nạn, kiết tường như nguyện. Song sau đó đương sự phải qui y Tam Bảo, tu học Phật Pháp, tạo phúc cho chúng

Ứng nhu cầu đại chúng, nên không có phủ định và phản đối lòng tin và tác dụng của việc gia trì.

Công năng gia trì đến từ chú lực, nguyện lực và tâm lực. Người trì chú công phu thâm hậu, bản thân chú ngữ sẽ sinh ra sức cảm ứng, có thể cảm thông quỉ thần, giúp đỡ và gia trì cho người khác. Người có nguyện lực mạnh, có thể dùng tâm phát nguyện cảm thông chư Phật và Bồ-tát, cho đến Hộ Phápm long thiên hộ trì, cứu giúp. Người có tâm lực mạnh, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến Tâm Niệm của người được gia trì, làm mạnh tthêm ý chí, chuyển đổi quan niệm cho họ. Bảo rằng gặp hung hóa kiết, tiêu tai trị bệnh, đều do sức mạnh tâm linh làm chủ.

Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn, tăng cường dũng khí và nghị lực của họ để đối diện với thực tế, mà không phải là tránh nợ, trốn lánh hiện thực. Đương nhiên nhờ sức gia trì có thể làm giảm đi áp lực và chướng ngại trước mắt. Sau đó mượn sức gia trì làm đà biến thành sức mạnh tự tu, hóa giải hết áp lực và chướng ngại.

Chánh, đâu là tín ngưỡng dân gian, những gì là Chánh Pháp, những gì là phi Pháp; và nhất là đính chánh những quan niệm lệch lạc, sai lầm về Phật giáo. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tự tin, vững bước trên nẻo đường học Phật, mà không sợ sa lạc vào ngã rẽ tà kiến. Vì tính chất đặc thù của quyển sách, chúng ta có thể đọc nó từ đầu đến cuối, hay xem mục lục, chọn đọc trước những vấn đề mà quan tâm thắc mắc.

Nhận thấy giá trị và lợi ích của quyển sách này, dịch giả đã phát tâm dịch ra Việt văn để kết Pháp duyên cùng tất cả mọi người. Kính nguyện những ai có duyên đọc được, chánh kiến, chánh tín chưa sinh sẽ sinh; chánh kiến, chánh tín đã sinh càng kiên cố; Bồ đề tâm tăng trưởng, bất thoái cho đến ngày viên thành Phật đạo.

Nghiên Cứu Sở Phật Học Trung Hoa
ngày 19.09.1999
Dịch giả cẩn chí




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 13588)
Hằng năm cứ mỗi độ cuối đông, toàn thể Phật giáo đồ trên khắp năm châu bốn bể, đều long trọng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo (vào ngày mùng tám tháng mười hai âm lịch).
08/04/2013(Xem: 14480)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 18406)
Bồ Tát Quán Thế Âm, hình ảnh rất thân thiết, gần gũi đối với mọi tầng lớp quần chúng, nhất là những người Á Ðông. Nhiều người chưa quy y Tam Bảo, chưa trở thành Phật tử chính thức, . . .
08/04/2013(Xem: 11831)
Từ nhỏ con đã được cha mẹ ẳm đi quy y khi vừa đầy tháng, cho nên niệm Phật đã trở thành một nếp quen thuộc hằng ngày. Mỗi sáng thức dậy niệm Phật, mỗi tối trước khi đi ngủ cũng niệm Phật, trước khi ăn cơm xá đủa và niệm Phật, . . .
08/04/2013(Xem: 13044)
Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ, không những trên phương diện tư tưởng, tu chứng, mà còn cả trên phương diện văn học. Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ. Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này, và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận "gối đầu" cho những kẻ học Phật.
05/04/2013(Xem: 3601)
Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm lính lễ, cầu nguyện Ngài, tại sao Bồ Tát Quan Âm đạt được quả đức như vậy?
29/03/2013(Xem: 5108)
Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán. Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn.
27/03/2013(Xem: 4473)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Rộng phát Tâm Từ Bi Công hạnh sâu như biển Quay ngược thuyền Từ
10/01/2013(Xem: 3885)
Ý nghĩa của Thỉnh Chuyển Pháp Luân hiểu được rồi, đặc biệt là thời buổi hiện đại khoa học kỹ thuật đang không ngừng tiến bộ, mạng Internet cũng không ngừng cải tiến, chúng ta tin tưởng khoảng 2-3 năm sau rất có thể nó sẽ thay thế truyền hình, mức độ tiện lợi, máy tính cỡ nhỏ, lớn bằng bàn tay như vầy có thể mang theo bên mình bất cứ lúc nào, có thể truy cập lên mạng trên toàn thế giới, chúng ta cần biết những công cụ tiên tiến này. Hôm qua, có một bạn đồng tu tặng tôi bản mục lục ở trên mạng Internet, tôi đã xem, vô cùng phong phú, rất nhiều tư liệu giảng kinh của pháp sư đều có trong đó, bạn thấy điều này tiện lợi biết bao, các bạn ở trong nhà, muốn học với pháp sư nào, bạn đều có thể học được cả.
10/01/2013(Xem: 3893)
Hạnh nguyện Phổ Hiền, tổng cộng có mười hạnh nguyện. Phần trước đã giảng cho quí vị bốn hạnh nguyện rồi. Mỗi một hạnh nguyện, chúng ta đều thường niệm. Ở trong nhà Phật, các tổ sư đại đức đem mười cương mục này sắp xếp vào thời khóa tụng sáng tối, cho nên mọi người đều niệm rất thuộc: Nhất giả lễ kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai, v.v… đều rất thuộc. Nhưng [nếu] không thực hiện, chỉ có niệm như vậy thì không có ý nghĩa gì cả, chỉ gieo trồng được thiện căn trong A Lại Da Thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]