Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024 tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )

30/06/202407:37(Xem: 4171)
Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024 tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )
Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú

(TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024
tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )





Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Đức! Hôm nay con xin được trình bày về “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của Trúc Lâm Đầu Đà. Bài này có 10 hồi. Có thể hôm nay con trình bày một hay hai hồi vì thời lượng không nhiều. 

Trúc Lâm Đầu Đà, Ngài tên thật là Trần Khâm. Sinh năm 1258, lên ngôi năm 1278, ở ngôi 15 năm từ 1278 đến 1293, nhường ngôi cho con lên làm Thượng hoàng 6 năm từ 1293 đến 1299, sau đó ngài đi tu 9 năm từ năm 1299 đến năm 1308. Năm 1308 ngài viên tịch. Trụ thế 50 tuổi Tây, 51 tuổiTa. 
Đó là cuộc đời của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là anh hùng dân tộc, là một bậc minh quân, là vị tổ khai sáng ra dòng thiền Việt Nam.
Hồi Thứ Nhất:

 “Mình ngồi thành thị; nết dùng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; nửa ngày rồi tự tại thân tâm”. Chính câu này mà có người cho rằng Trúc Lâm Đầu Đà đã viết Cư Trần Lạc Đạo Phú lúc ngài còn ở kinh thành Thăng Long. Nhưng theo con thì Cư Trần Lạc Đạo Phú  được tác giả sáng tác vào thời điểm ngài đã xuất gia ở trên núi Yên Tử. Vì lòng tự hào dân tộc, niềm kiêu hãnh dân tộc, để bảo tồn nền độc lập tự chủ, bảo tồn văn hóa của Đại Việt, Trúc Lâm Đầu Đà đã sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để viết nên Cư Trần Lạc Đạo Phú, một tuyệt tác văn học Thiền của Phật giao Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo Phú với bút pháp tuyệt diệu theo lối văn biền ngẫu. Vế trước đối với vế sau. Câu trước đối với câu sau, tạo thành những cặp song đối thật súc tích, cô đọng rất hay, đạt đến đỉnh điểm trên phương cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật “ Dĩ văn tải đạo”: Dùng văn chở đạo. Đây là bài văn bằng chữ Nôm đầu tiên trên dòng lịch sử văn học nước nhà.

   Mở đầu Hồi thứ nhất bằng chữ “Mình” rất hay, rất tuyệt diệu! Chữ “ Mình” ở đây Trúc Lâm Đầu Đà nói về chính bản thân mình đồng thời cũng để nói cho số đông. Vào thời ấy mà tác giả không dùng chữ “ 我:ngã” hay chữ “ 吾:ngô” mà là dùng chữ “ Mình” rất chi là Việt Nam. Chữ “ Mình” ở đây rất gần gũi, rất thân thương, dùng một chữ “ Mình” này đã ôm trọn cả dân tộc Đại Việt. Ngài không dùng chữ “居:cư” nghĩa là ở mà dùng chữ “ ngồi”. Chữ ngồi chữ Hán là chữ “坐:tọa “.Tọa có nghĩa làngồi. Học theo Trúc Lâm Đầu Đà, Thay vì mình nói:” Mời quý vị tọa thiền”, thì mình nói: “Mời quý vị ngồi thiền”. Cho bớt lệ thuộc vào chữ Hán. Trong nghi thức tiến linh có bài kệ châm trà: 

“Dương Tử giang tâm thuỷ
Mông Sơn đảnh thượng trà
Hương linh tam ẩm liễu
Tảo sanh pháp vương gia”.

Dịch nghĩa: 

“Nước giữa sông Dương Tử
Trà trên đĩnh Mông Sơn
Hương linh uống ba lần
Sớm sanh nhà Pháp Vương”.

    Dương Tử Giang tức là Trường Giang ở Trung Quốc là con sông dài nhất châu Á.
   Mông Sơn: Cách 15 dặm phía về hướng Tây huyện Danh Sơn, châu Nhã An, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. 

  Lấy trà trên đĩnh Mông Sơn pha với nước sông Dương Tử rồi đem dâng cúng cho hương linh. Hương linh uống ba lần thì hương linh được sanh vào nhà Pháp Vương. Tại sao chỉ có nước Sông Dương Tử và trà trên đỉnh Mông Sơn mới được? Khi phát hiện ra điều này, con quyết định không đọc bài kệ này nữa. Noi theo tinh thần Trúc Lâm Đầu Đà, con đã mạo muội viết bài kệ dâng trà mới để thay cho bài kệ trên. 

“Trà thơm ba chén hiến dâng
Ngưỡng mong linh tưởng thương lòng chứng tri
Cam lồ rưới khắp mọi thì ( thời)
Nghe lời kinh Phật thoát đi ách nàn.
Sanh về Tịnh độ Lạc bang 
Di Đà giáo hóa sen vàng nhẹ nâng”.

“Thành thị” là nơi đông đúc, xô bồ. Vậy mà Trúc Lâm Đầu Đà nói:” Nết dùng sơn lâm”. Nết là nết hạnh, tánh nết, nết na. Như thông thường chúng ta nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Người tu chúng ta cũng có cái nết đẹp của người tu. Nết đẹp của người tu được huân đúc, tôi luyện trong bốn oai nghi: Đi, đứng, ngồi nằm. Mỗi người xuất gia khi vào chốn thiền môn, đều phải học qua bốn quyển Luật Trường Hàng. Trong đó có quyển Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu có những bài thi kệ ngắn để người tu nhiếp niệm thúc liễm thân tâm trong mọi hoạt động hằng ngày. “Nết” ở đây chỉ cho tâm tư, cốt cách, phong thái, thần thái của người ở thành thị mà như là ở nơi thanh vắng yên tĩnh, nơi núi rừng cô tịch. Phải là người đắc đạo mới có được tâm tư và đạo phong như thế. Và Trúc Lâm Đầu Đà là bậc đã đắc đạo.

  “Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh. Nữa ngày rồi tự tại thân tâm”. 

Thường chúng ta nói ba nghiệp: “Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp”. Ở đây ngài nói: “Muôn nghiệp”. Tức là thân nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp. Khẩu nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp và ý nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp. Nghiệp là hành động có tác ý được lặp đi lặp lại nhiều lần. Kinh Hoa Nghiêm nói: 

“ Giả sử bách thiên kiếp
Sở tạo nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ”.

Nghĩa là:

“ Giả sử trăm ngàn kiếp
Những nghiệp tạo ra không mất
Khi nhân duyên hội ngộ
Quả báo mình tự nhận”.

Nghiệp theo chúng ta như bóng với hình. Đọc bài kệ này rồi chúng ta không dám tạo nghiệp nữa. Để tiêu trừ nghiệp chướng, chúng ta nên hằng ngày sám hối, chứ không phải đợi 14 hay 30 mới sám hối. Sám hối bằng cách lạy:  Lương Hoàng Sám, Thuỷ Sám, Ngũ Bách Danh Kinh, Hồng Danh Sám Hối.v.v.




tt chuc hien (1)tt chuc hien (2)tt chuc hien (3)tt chuc hien (4)tt chuc hien (5)tt chuc hien (6)tt chuc hien (7)tt chuc hien (8)tt chuc hien (9)

Muôn nghiệp về thân, về khẩu,về ý lặng rồi, sạch rồi thì Thể tánh an nhàn hiện ra. Mỗi người chúng ta đều có thể tánh trong sáng, nhưng vì vô minh phiền não,nghiệp chướng che lấp. Thể tánh này chính là Bản lai diện mục của mỗi người. Chính là cái mà Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.” Chính là Tri kiến Phật, là hạt châu trong chéo áo của kinh Pháp Hoa, là Thể tánh tịnh minh chơn tâm thường trú trong Kinh Lăng Nghiêm, là “Bổn lai vô nhất vật” của Lục Tổ Huệ Năng. Thể tánh này chúng sanh và Phật như nhau. “Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng”.  Bình đẳng của đạo Phật là chỗ này. Thấy được thể tánh này rồi bắt đầu tu gọi là: Kiến tánh khởi tu(見 性 起 修)Tức là khi thấy được thể tánh rỗng lặng đó rồi thì đi đứng nằm ngồi, làm mọi việc nhưng đâu đấu nhìn thẳng vào đó một cách miên mật. Như trong “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn”thiền sư Tuệ Hải có hỏi:  Từ đâu mà tu? Đáp từ căn bản tu. Thế nào từ căn bản tu? Đáp: Tâm là căn bản”.( Nguyên văn: 問:從何而修?答:從根本修。云何從根本修?答:心為根本). Mục đích của người tu là làm sao thấy cho được thể tánh đó của mình. Nếu thấy được thể tánh trong sáng đó thì tu mới thấy thú vị. Còn như không thấy được thì thể tánh ấy thì tu không có gì thú vị. Tu thời gian đâm ra chán. Thông thường chúng ta đều sống trên vọng thức, sống trên nghiệp thức mà sống trên vọng thức, sống trên nghiệp thức thì dễ bị cuốn vào vòng luân hồi phiền não khổ đau. Vô thường đi qua nhanh lắm, vèo một cái là hết năm, vèo một cái là hết năm. 

- 寸 光 陰 -寸 金
寸 金 難 買 寸 光 陰

Nhất thốn quang âm nhất thốn kim
Thốn kim nan mãi thốn quang âm

Nghĩa là: 

“Một tấc thời gian một tấc vàng
Tấc vàng khó mua được tấc thời gian”.

  Nếu chúng ta không thấy được thể tánh của mình thì uổng lắm. Vô thường đến thình lình, mình không biết đi về đâu?! Thì uổng một đời! Con thì con chưa thấy, nhưng con cảm được có cái gì đó rất quý ở nơi mình. Mỗi khi có bao nhiêu phiền não xảy ra, lặng lẽ xoay nhìn lại thì thấy cái đó hiện ra và cảm thấy mình sung sướng và hạnh phúc. Ước gì tất cả chúng ta đều thấy và sống được với thể tánh quý báu đó hoài, để rồi mọi người được sống trong cảnh an vui không còn thị phi tranh chấp hơn thua..!
“ Nửa ngày rồi tự tại thân tâm”. Chữ “ rồi “ ở đây đối lại với chữ “lặng” ở vế trước.  Toàn bài Phú, Trúc Lâm Đầu Đà đã viết theo lối văn biền ngẫu. Vế trước và vế sau đối nhau chan chát thật là trác việt. Viết theo lối hành văn này rất khó. Ngày nay ít người chạm đến.

 “Rồi”ở đây có nghĩa là an nhàn thân tâm được tự tại. Thế nào là tự tại? Tự tại với sắc thanh hương vị xúc pháp. Chúng ta thường bị sắc thanh hương vị xúc pháp chi phối. Như Trần Thái Tông nói:

“Lưỡi vướng vị ngon tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày tháng xa quê muôn dặm trường”.

 Tai chúng ta dễ bị vướng tiếng lắm! Người ta khen mình thì ngay lập tức không chỉ miệng cười, môi cười, mắt cười, mà bốn vạn tám ngàn lỗ chân lông đều mỉm cười, khắp châu thân đều mỉm cười. Nhưng người ta mà chê mình thì không chỉ mắt buồn, mặt buồn, môi buồn, mà tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đều buồn,đều xìu xuống, cả châu thân đều buồn.

“Tham ái nguồn dừng chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý, thị phi tiếng lặn dầu được nghe yến thốt oanh ngâm”.

Nguồn tham ái dừng được rồi, cõi lòng thanh thản chơn tánh hiển hiện thì đối với châu báu vàng ngọc không còn vướng bận. Tiếng thị phi lặng rồi thì tha hồ nghe yến, oanh ca hót 

“ Chơi nước biếc, ẩn non xanh nhân gian có nhiều người đắc ý. Ngắm đào hồng hay liễu lục thiên hạ năng mấy chủ tri âm”. 
Dạo nơi sông suối trong, ẩn nơi rừng sâu nhân gian có nhiều đắc ý, vui thích. “Ngắm đào hồng, hay liễu lục”. Chữ “hay” ở đây đối với chữ “ngắm”ở vế trước “Ngắm đào hồng”. Đồng thời đối với chữ “ ẩn” ở câu trên “ Ẩn non xanh”. Nên chữ “ hay” ở đây có nghĩa là biết, là rõ. Liễu lục nghĩa là liễu màu xanh. “Ngắm đào hồng, biết liễu màu xanh, nhưng thiên hạ có mấy người có khả năng nhận ra được “ Chủ tri âm”. Chủ tri âm là mỗi người chúng ta đều có ông chủ tri âm đó. Mình đi ông chủ đó cũng đi. Mình ngồi ông chủ cũng ngồi. Mình nằm ông chủ cũng nằm. Mình ăn cơm ông chủ cũng ăn cơm. Mình làm bất cứ việc gì ông chủ cũng có mặt. Cho nên gọi là tri âm tri kỷ. Nhưng trong chúng ta có mấy người nhận ra được ông Chủ tri âm của mình? Ngài Linh Vân thấy hoa đào nở thì nhận ra được ông chủ tri âm của mình.

三十年來尋劍客
幾回落葉又抽枝
自從一見桃花後
直至如今更不疑

Tam thập niên lai tầm khách kiếm
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi

Nghĩa là: 

Ba mươi năm đi tìm kiếm khách
Bao mùa lá rụng lại đâm chồi
Từ ngày thấy được hoa đào nở
Thẳng đến hôm nay không còn nghi.

Một khi thấy được “Chủ tri âm” đích thực của mình rồi thì: “Nguyệt bạc vừng xanh soi mọi chỗ, thiền hà lai láng. Liễu mềm hoa tốt ngất quần sanh, tuệ nhật sâm lâm”. Quá là hay. Lời văn nhẹ nhàng thanh thoát ý tứ cao vời.

“Nguyệt bạc” là mặt trăng màu bạc. Ánh sáng trăng là ánh sáng huyền dịu. “Nhất thiết tu đa la như tiêu chỉ nguyệt”. Tất cả kinh điển như là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu chấp vào ngón tay thì sẽ không thấy mặt trăng. Mỗi người chúng ta đều có mặt trăng huyền dịu linh mầu sáng rỡ, sờ sờ trước mắt, nhưng chúng ta đã bị mây mờ của vô minh, phiền não, lo toan, khổ đau che khuất. Để cho đám mây mờ kia tan đi để cho vầng trăng kia hiển lộ, chúng ta tu tập bằng cách tham thiền, tụng kinh, niệm Phật .v.v. Chúng ta nhờ pháp để tu. Không nhờ pháp thì không tu được. Nhưng tu thời gian thì bị chấp, mà chấp là trật. Chấp ngã rồi lại chấp pháp. Như mượn thuyền để qua sông. Qua sông rồi vác thuyền lên vai để đi có đúng không? Qua sông rồi thả thuyền để đi tiếp. Nhưng mà qua sông mới thả thuyền. Chưa qua sông mà thả thuyền thì bị chết chìm. Lái xe đi đến Tu Viện Đại Bi rồi thì đậu xe, xuống xe, đi vào trong Chánh điện lễ Phật. Còn như lái xe đến Tu Viện Đại Bi rồi không chịu xuống xe mà cứ ngồi trên xe, thì dù có lái xe ngàn lần đến Tu Viện Đại Bi thì cũng thấy được bên trong Chánh điện của Tu Viện Đại Bi. 

“Vừng xanh” tức là trời xanh không có mây che. Chữ của thế kỷ mười ba. Bầu trời xanh ở đây chỉ cho chơn tâm rỗng lặng của mỗi người. Trong cõi lòng của mỗi người chúng ta một khi mà tham, sân, si, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiễm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, tán loạn, thất niệm, bất chánh tri lặng hết rồi thì, chơn tâm hiển hiện, mặt trăng trí tuệ hiện ra. Như Trần Thái Tông nói:

千 江 有 水 千 江 月
萬 里 無 雲 萬 里 天
“ Thiên giang hữu thuỷ thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên”

Nghĩa là: 

“Ngàn sông có nước ngàn sông trăng
Muôn dặm không mây muôn dặm trời”

Ngôn ngữ thiền quá là hay. Quá là tuyệt diệu. Cái hay của ngôn ngữ thiền là không nói ra hết, mà để lơ lửng, để thôi thúc hành giả tự mình nỗ lực tinh tấn đi vào thế giới nội tại, để lãnh hội, để thấu triệt và để khai phóng con người đích thực của chính mình. 

  Con xin dừng lại ở đây vì hết giờ. Con thành kính đảnh lễ tri ân chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cùng hội chúng. Trong suốt thời gian trình bày con có điều gì sai sót. Kính mong quý Ngài từ bi hoan hỷ bỏ qua cho con. Con xin thành tâm đảnh lễ sám hối. 
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát 
 
Tu Viện Đại Bi, California, Mùa An Cư-2024. PL.2568.
Thích Chúc Hiền


 🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Kính mời xem tiếp:

Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (phần 2)
TT Chúc Hiền thuyết trình tại Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần thứ 11)







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7768)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3614)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3566)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11712)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4045)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3527)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10976)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6898)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13319)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4415)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]