Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học là phương tiện thiện xảo của một vị Giảng Sư ?

15/04/202408:37(Xem: 2872)
Yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học là phương tiện thiện xảo của một vị Giảng Sư ?


Bat Quan Trai_14_4_2024 (23)Bat Quan Trai_14_4_2024 (25)Bat Quan Trai_14_4_2024 (28)
Phải chăng yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học, Phương tiện thiện xảo của một vị Giảng  Sư đóng vai trò quan trọng nhất trong Sự nghiệp hoằng pháp?

 

Vài cảm nghĩ khi được nghe bài pháp thoại của HT Pháp Tông ( Trụ trì chùa Huyền Không / Cố Đô Huế -VN )  tại Tu Viện Quảng Đức vào ngày 14/4/2024 của khoá tu Bát Quan Trai.

 

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch HT Pháp Tông, Trú trì chùa Huyền Không tại cố đô Huế/VN

 

Kính bạch HT Thích Thông Mẫn, Viện chủ Tu Viện Quảng Đức. Melbourne, Úc Châu  

 

Kính bạch TT Thích Nguyên Tạng, trú trì tu viện Quảng Đức kiêm Tổng thư ký GHPGVNTNtaij hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan, kiêm Ủy viên Hoằng pháp Tăng Già Thế Giới

  

Con, Phật tử Huệ Hương  từ lâu vẫn được hiểu rằng: “ chư Tỳ-kheo là sứ giả của Đức Như Lai, mang thông điệp giải thoát khổ đau, mang hòa bình, an lạc cho mọi người vì Phật giáo là đạo của sự giác ngộ, giác ngộ để giải thoát khỏi tham lam, thù hận”.

 

Vì thế cho nên nhiệm vụ hoằng pháp của vị Tỳ-kheo rất quan trọng trong việc lan tỏa  giáo lý giải thoát của Đức Phật  vào đời để cứu độ chúng sinh, với chủ trương lấy đạo đức, trí tuệ làm cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển (sự sống).

 

 Con cũng được học từ kinh điển rằng: Sau khi thành đạo  Đức Phật  đã  du hành đến các nơi rất xa dù rất khó khăn, phải đi bộ, rất hiếm khi được đi nhờ xe bò đó là chưa kể phải băng rừng, lội suối.

“ Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và người. Chớ đi chung đường với nhau. Này các Tỳ-kheo hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng lúc đầu, cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí hay trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự hoàn hảo viên mãn về đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả...” (Mahavagga I, 11)

 

Do đó việc tiếp nối sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo  (là truyền bá rộng rãi Phật pháp ở khắp nơi) đặc biệt trong thời hiện đại rất là cần thiết nhất là tại Hải ngoại, dù rằng hiện nay phương tiện truyền thông rất đầy đủ nhưng việc thực hành phải tự lập và hết sức khó khăn nếu không nhờ đến những khóa tu bát quan trai.

 

Công việc hoằng pháp gồm nhiều lĩnh vực, nhiều phương tiện và vì thế trong mỗi chương trình thọ bát quan trai tại Tu viện Quảng Đức  đều thực hiện những giờ pháp thoại với nhiều chủ đề khác nhau như  Đạo Phật đi vào đời; Đạo Phật và xã hội, Đạo Phật dấn thân; Đạo Phật nhập thế.

 

 

Phật tử còn ràng buộc gia duyên,

cần phát nguyện, tinh tấn thực hành trọn vẹn(2)

 

Sẽ tích lũy vô lượng công đức khi thực hiện !

 

 

 

Kính tri ân Quý Thầy Tu viện Quảng Đức

cung thỉnh  quý giảng sư  thấu triệt thâm sâu

 

Lại livestream giúp lan tỏa Chánh pháp nhiệm mầu

 

Học từ thân giáo, “dưới chân Thầy”  sự thánh thiện!

Ai , người,  nếu biết dụng tâm tu tập, 

nỗ lực xây dựng hướng đi cho bản thân  thực tiền !

 

 “Lộ trình 5 pháp” để từng bước thành tựu vững vàng (3)

Hiện thực hoá trong đời sống hoà hợp nhẹ nhàng

 

Vô sư trí đã có sẵn trong ta,

chỉ cần thấy ra Sự Thật !

 

Để tồn tại và phát triển thần thông bí mật

Đến từ sáu giác quan, quyền sở hữu tự nhiên

 

Phải tôn trọng, cảnh giác,

bảo vệ khi tiếp xúc cảnh duyên

 

Kính tri ân giảng sư với “trung ngôn nghịch nhỉ”

Giải đáp những vấn đề,

cần sử dụng phương tiện thiện xảo tỉ mỉ

 

Sáng tỏ một Đạo Phật thuần tuý,

giúp xoa dịu phiền não, buồn đau 

 

Giải thoát khổ, khẳng định mục đích tối cao

Nhờ văn, tư, tu  sẽ phân  biệt chính, tà, thiện, ác!

 

Được nghe  pháp thoại,

 trong ngày tu bát quan trai giới thật an lạc !

 

(thơ Huệ Hương)

—————————————————————-

(1) tám giới luật thuộc về  Phật giáo do Đức Phật chế cho Phật tử tại gia: không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, không ngồi giường cao rộng, không ca múa hát xướng và giữ ăn một bữa.

 

(2) Tinh tấn theo bài giảng của HT Pháp Tông là chú tâm Chánh niệm và khi đã khởi đầu thì phải đi đến cùng ( đạt mục đích)

 

(3) TÍN, THÍ , VĂN, GIỚI, TUỆ

Kính bạch Hoà Thượng  Giảng Sư  Pháp Tông và HT Viện chủ Thích Thông Mẫn, và TT Thích Nguyên Tạng trú trì Tu Viện Quảng Đức, trong niềm hoan hỷ và an lạc dù chỉ thọ bát quan trai tại gia và được thính pháp qua livestream con kính xin được trình bày lại với vài cảm nghĩ chân thành nhất.

 

Qua lời giới thiệu của  TT Trụ  trì Tu Viện  Quảng Đức  khi nói về hành trạng HT Pháp Tông ( Với học vị tiến sĩ, kiến thức uyên thâm, niềm tự hào của danh tăng Phật giáo Việt Nam đã được vị trí cao trong hàng giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Thái Lan.) chúng  con đã thật xúc đông khi nghe giọng nói thật hiền hoà ấm áp của HT Pháp Tông đến với chủ đề “Phật học tu tập” theo quan điểm phát triển thật đáng ngưỡng mộ của Ngài và nhất là khi giải đáp những câu hỏi của quý đạo hữu trong đạo tràng khoá tu bát quan trai của Tu Viện Quảng Đức ngày 14/4/2024 vì đó là những câu hỏi rất quen thuộc thường gặp trên hàng trăm buổi pháp đàm của HT Pháp Tông được phát trên YouTube do chùa Huyền Không Official mà  TT.Thích Nguyên Tạng đã đồng ý là Trung ngôn thì nghịch nhĩ ( lời ngay thẳng rất khó nghe) .

 

Mở đầu HT Pháp Tông đã giới thiệu lộ trình trang bị 5 pháp từng bước thành tựu mà người Phật tử cần phải có đó là: TÍN, THÍ, VĂN, GIỚI, TUỆ .

 

Theo đó Tín được hiểu là Niềm Tin, hay còn gọi là Đức Tin mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi một tín đồ cần có. Riêng với Đạo Phật thì phân làm hai loại Chánh tín và Tà tín,

 

Chánh tín là khởi niềm tin quyết lòng đi theo con đường của Đức Phật ( bậc đại giác ngộ đã thấu suốt chân lý thoát Khổ)  do đó  phải giải thoát được những khổ đau phiền muộn “Theo Như Lai, tin Như Lai, tôn kính Như Lai mà không hiểu, hiểu sai, hành sai giáo pháp Như Lai dạy, chẳng khác nào phỉ báng Như Lai”

 

“Lành thay! Lành thay! Ai thực sự mến mộ và tín tin Như Lai thì hãy cố gắng noi gương vị Tỳ-khưu chân chánh. Người tôn kính Như Lai nhất là người thực hành đúng giáo pháp mà Như Lai đã chỉ”

 

“Người nào thấy Chánh pháp là thấy Như Lai”.

 

Trong khi Tà tín là tin vào những gì nằm ngoài chân lý thoát Khổ, tin vào những đối tượng không nằm trong lời dạy của Đức Phật, tin vào thông tin  sai lạc những sự hiểu biết, rất vô căn cứ, dẫn dắt con người, đến chỗ tranh chấp, đấu tranh hơn thua, thành kiến bảo thủ, phiền não khổ đau đến từ tham, si sân

 

—-Sang đến THÍ là từ ngữ được dùng để chỉ sự chia sẻ một cái gì đó về vật chất hay tinh thần thường dùng trong Bố thí , đàn na thí chủ . Nhưng đối với những bậc trưởng thượng thì có thể đổi thành nhiều từ khác như: Phụng dưỡng ( cha mẹ ) Cúng dường ( hộ trì tam bảo, tri ân chư Tăng thiền  Đức, Sư Phụ )

 

Nhưng với chữ Thí có nghĩa là phải có một cái gì đó mới có thể chia sẻ, ta không thể không có một chút gì hết mà đòi bố thí được, do đó HẠNH THÍ LÀ MỘT TRONG NHỮNG PHÁP GIÚP CHÚNG TA SỐNG HOÀ HỢP VÀ HIỆN THỰC HOÁ ĐỜI SỐNG. (Có nghĩa là sẵn sàng chia sẻ cho người khác, luôn mang lại niềm vui cho  người) 

 

Có một chút ngoại lệ khi HT nói đến Tinh Tấn không nằm trong 5 pháp cần trạng bị nhưng rất hữu ích cho đạo tràng tu tập đó là Dù cho tinh tấn có nghĩa là siêng năng chăm chỉ nhưng phải nhớ đừng tạo thêm một cái tôi ngã mạn mà chỉ nhớ một điều quan trọng nhất là khi làm bất cứ điều gì thì hãy đặt hết sự chú tâm vào và một khi đã khởi sự một việc gì thì hãy thực hiện cho đến cùng  để hoàn thành mục đích )

 

Riêng phần Văn là Nghe, có lẽ ngày nay nhờ có chữ viết nên kinh điển ngày nay đều được ghi chép lại chứ ngày trước thời Đức Phật chỉ có kinh văn vì thế mỗi một lời dạy Đức Phật thường  lập đi lập lại nhiều lần và những ai muốn thâm nhập lời dạy của Phật đều phải huân tập về Tịnh xá và sau đó phải tư duy ( suy nghĩ) rồi ứng dụng thực hành để mang lại lợi ích cho mình và người.

 

 Vì thế trong  Văn , Tư, Tu, thì phương pháp nghe là quan trọng nhất, ngày nay những ai thường nghe pháp thoại trên YouTube cũng đạt nhiều lợi ích nhất là khi đã tuyển chọn đúng đề tài thích hợp với căn cơ mình.

 

Điều thú vị nhất mà con được nghe hôm nay là HỌC ĐẠO DƯỚI CHÂN THẦY, có nghĩa là người học trò có thể từ thân giáo của người Thầy mà tiến bộ được tâm linh . Kính tri ân Giảng Sư,

 

 

 

Và một điều thật tuyệt vời hôm nay không gì bằng khi được nghe những điều chia sẻ về Giới rất mới lạ đến từ Hoà Thượng Giảng Sư Pháp Tông,

 

Chúng con nhờ đó được phân biệt giới cho cư sĩ tại gia là những điều học mà mình cần phải tiếp thu và biết đâu là lằn ranh  giới hạn để nguyện không vấp phải những hành vi sai lầm.

 

Và phải chăng trong sự phiên dịch từ Pali sang Hán và từ Hán tạng sang Việt ngữ  đã có nhiều thay đổi mà nhiều khi đã trở thành đương nhiên chấp nhận vì theo ngài Giảng Sư thì từ ngữ  sự sống theo định nghĩa  của Pali  có nghĩa là tồn tại ( hiện hữu)  và phát triển , mà một khi còn  có hiện hữu là còn có vấn đề."Vì mọi hiện hữu nó chỉ tồn tại trên những vấn đề.cho nên qua 5 điều học rất cơ bản cho một Phật tử sống đời sống gia đình là:

1) Không sát sinh;

 2) Không trộm, cắp;

 3) Không tà hạnh;

 4) Không nói dối;

 5) Không uống các thứ rượu, các chất men say.

 

Điều thật quan trọng và tuyệt vời khi được đổi cách phát biểu về 5 giới cho người cư sĩ tại gia đều bắt đầu như sau:

—về sát sinh : Con nguyện học , hiểu và tôn trọng bảo vệ sự sống họ muôn loài

— về trộm cắp : con nguyện học, hiểu về quyền sở hữu tự nhiên của bất kỳ sinh linh nào. Tất cả mọi sở hữu của cá nhân, đoán thể, xã hội đều phải được thừa nhận , tôn trọng và bảo vệ

—về tà hạnh ( phải hiểu được hành vi nào là không phạm pháp, ý thức được giá trịa hôn nhân của gia đình.

— về vọng ngữ : Đôi  khi  cũng cần đến sự thông minh trong việc nói dối để không hại người, hại mình

 

 Thì ra các điều học này trở thành 5 giới đều bảo vệ đời sống, bất hại, giữ gìn và phát triển tâm lý hiền thiện, nhân tố của ổn định đời sống xã hội đúng như như bài kệ mà Đức Phật đã đọc cho những người Koliya tìm đến Ngài như sau

 

“Tháo vát trong công việc

Không phóng dật, nhanh nhẹn,

Sống đời sống thăng bằng

Giữ tài sản thâu được

Có tín, đầy đủ giới

Bố thí, không xan tham.

Rửa sạch đường thượng đạo

An toàn trong tương lai

 

Đây chính là tâm pháp

Bậc tín chủ tìm cầu

Bậc chân thật tuyên bố

Đưa đến lạc hai đời:

Hạnh phúc cho hiện tại

 

Cũng như trong Trường bộ kinh 2- bài 31 Kinh Thiện Sinh (Singàla),, ghi lời dạy của Đức Phật về sáu mối tương hệ xã hội và hạnh phúc gia đình rằng:

 

1. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái

2. Thầy – Trò

3. Chồng – Vợ

4. Cá nhân và láng giềng

5. Chủ nhân và Cộng sự

6. Người tu và người đời

 

Riêng đối với người xuất gia, giới chỉ xuất hiện sau kỳ hạ thứ 13 của Đức Phật và đây là những quy định bắt buộc về Sát,Đạo, Dâm, Vọng và nếu không tuân theo thì phải bị trục xuất khỏi  Tăng Đoàn.

 


 

Sang đến phần Tuệ , giảng sư đã giúp các Phật tử phân biệt rằng Tuệ không phải do kiến thức mà nó đến bằng sự thấy ra sự thật ( chân lý)

Ngài cũng chỉ rõ thế nào là VÔ TRI TRÍ = CÁI BIẾT = VÔ PHÂN BIỆT TRÍ không do tu tập , không do rèn luyện có sẵn trong ta mà Đức Phật thường dạy “ Trong cái Thấy chỉ là cái thấy “

 

Và một cái PHÂN BIỆT TRÍ ( do học, do sự phân biệt , suy đoán) mà tất cả được

gây ra do các động cơ tâm lý tham lam, sân hận, si mê (tà kiến) như đức Phật đã tuyên bố trong kinh Tăng Chi

 

      “Này các Tỷ kheo, có ba căn bản của sai lầm. Thế nào là ba? – tham, sân, si.

Bất cứ việc gì kẻ tham lam thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...Bất cứ gì người sân hận thực hiện với thân, lời và ý là là sai lầm...Bất cứ việc gì người si thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...”

 

 Ba căn bản bất thiện ấy dấy khởi từ vô minh, từ nhận thức cho rằng mọi hiện hữu đều có tự ngã riêng và thường hằng, bất biếnkhởi lên từ duy ngã tính và bị ám ảnh bởi ý niệm “tôi hiện hữu”, “tôi đã hiện hữu”, “tôi phải hiện hữu”, “mong rằng tôi sẽ hiện hữu” nuôi dưỡng tham ái và chấp thủ.

 

Như vậy “Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình” . (Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Đức).

 

Và theo HT Pháp Tông Tuệ giác  chính là sự soi sáng vào bên trong chính mình, như nhìn vào một tấm gương nhận thấy những phiền não, buồn vui như chúng là và không tương tác phản ứng (Theo tinh thần Tứ niệm Xứ )

 

Đến đây đã hết giờ cho pháp thoại,  nên có các câu hỏi được nêu lên từ quý đạo hữu thọ giới bát quan trai

 

1- Tại sao tất cả đều tuân theo luật nhân quả thì cầu an và cầu siêu trong Phật giáo có đúng không

 

Đáp : Khi bạn đau bệnh bạn có uống thuốc để giảm đau không ? Phật giáo không phủ nhận về vấn đề nhân quả nhưng trước nhất việc cầu an và cầu siêu có nhiệm vụ hỗ trợ để an tâm chứ không phải là yếu tố quyết định

 

2- Người chết khi được cầu siêu có được thực sự vãng sanh hay siêu thoát không ?

 

Đáp: Với sự hộ niệm và cầu siêu có 2 trường hợp xảy ra :

-Đối với người có tu tập sẽ nhận được năng lượng trực tiếp vì trong trời đất vẫn luôn có những luồng linh khí bàng bạc sẽ tương ưng

Đối với người không tu ít ra cũng tạo một duyên lành cho họ để nối kết và sẽ giúp người thân ở lại an lòng hơn như đã chia sẻ được tấm thân tình

 

3- Người chết khi sống không quy y , đến khi chết, mời Thầy đến cho một pháp danh thì pháp danh đó có giúp ích gì không?

 

Đáp : Thật ra tên không quan trọng bằng tự thân tu tập, Hãy coi pháp danh đó như một thứ tên mà các Đức vua sau khi băng hà được gọi là Thụy hiệu

Hãy làm việc thiện lành quy y để có pháp danh khi còn sống sẽ tốt hơn

 

4-Con thường được học rằng Giới sanh Định, Định sanh Tuệ có phái đúng như thế không?

Đáp: Không đúng lắm vì Tuệ ở đây là Thấy ra Sự Thật 

(ghi chú HT có bài giảng trên youtube Thiền định không sinh ra trí tuệ )

 

Lời kết

 

Có lẽ  lần thứ hai này khi được mời  đến Tu  viện Quảng Đức, nhờ vào kinh nghiệm của năm trước (16/4/2023) cho nên hôm nay  HT Pháp Tông  với một công trình biên khảo công phu đã nêu dẫn đầy đủ các mặt nội dung giáo dục để chỉ rõ giáo lý của Đức Phật  với tư cách vừa là một học thuyết giải thoát về cách sống lương thiện tốt đẹp cho con người, vừa là một học thuyết không phân biệt đại thừa và tiểu thừa  đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tư tưởng mới của người Phật Tử ở vào thời đại công nghệ hiện nay.

 Đó chính là sự tu dưỡng và hoán chuyển nội tâm mình là bổn phận quan trọng nhất trong đời sống chúng ta, có nghĩa là đời sống hướng đến sự thăng hoa tâm linh là phản ứng tất yếu và cần thiết cho đời sống của mỗi người mà không hề dành riêng cho ai hết.

 

Thật là một trùng hợp đặc biệt vì chỉ còn đúng một tháng nữa là người Phật tử lại hân hoan chào đón đại lễ Vésak= PL 2568( lễ Phật đản 2648)   mà Liên Hiệp Quốc đã tôn vinh từ năm 1999.

 

Con còn nhớ ngày trước trước, Hòa thượng Thích Chơn Thiện từng phát biểu rằng : “Phật giáo, qua lời dạy của Đức Phật, giới thiệu đến đỉnh cao của nền văn hoá giải thoát toàn triệt các khổ đau vật lý, tâm lý gọi là văn hóa giải thoát (tâm giải thoát và tuệ giải thoát: nếp sống bàng bạc hạnh phúc nội tâm, phát triển sung mãn các năng lượng tâm lý, và với trí tuệ thấy rõ tường tận sự thật của mọi hiện hữu).”

 

 Và HT Thích Chơn Thiện đã nhấn mạnh  thêm “con đường giảng dạy đó của Đức Phật làm nên một nền văn hoá của Phật giáo bao hàm đủ các cấp độ phát triển văn hoá từ xưa đến nay của nhân loại: công bằng (đạo đức xã hội) như các hệ thống pháp luật, quản trị; nhân ái, vị tha, khoan dung (đạo đức cao hơn mức văn hoá công bằng); khách quan, theo các quy luật khách quan của cuộc sống (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học vật lý, thuần tuý); và vượt lên cao và xa hơn nữa là cấp độ văn hoá rất nhân văn, rất tinh thần, gọi là văn hoá tinh thần, tâm linh.

 

Thật hoan hỷ thay ! Thật an lạc thay ! Con xin thành kính đảnh lễ Sư Thúc !

 

Con xin kính chúc Sư Thúc  có thật nhiều sức khỏe để  tải truyền giáo pháp Phật đến cho những thế hệ mai sau.

 

Con kính chúc Hoà Thượng Viện chủ và Thượng Toạ trụ trì Tu viện Quảng Đức luôn được phước trí  tròn đầy, luôn hoằng  pháp độ chúng sanh, thấm đạo, tu giải thoát.

 

Và sau hết con kính chúc khoá tu bát quan trai của đạo tràng Tu Viện Quảng Đức mãi mãi đạt được  thăng tiến trên bước đường tâm linh và sẽ viên mãn nhờ phát nguyện, tinh tấn tu tập để sống trọn vẹn.

 

Kính trân trọng,

 

Úc Châu 14/4/2024

Phật tử Huệ  Hương.



Bat Quan Trai_14_4_2024 (41)



Tự vấn ! 

Có lẽ học Đạo ngày nay 

cũng nên xét xem có đủ được ba việc? (1) 

Như Khổng Tử  đã tự vấn, chỉ đổi lại điều ba 

Thay vì dạy bảo, 

hãy  trình bày chia sẻ điều đã nhìn ra, 

“Khi hiểu được, đọc được cuốn sách chính mình, 

Cổ Đức dạy ngày kia trở nên Người GIÁC NGỘ “!  



 Dù bước đường này rất dài, rất nhọc khó 

Nhưng ai…

 cũng có quyền khám phá, tự nguyện kiếm tìm

Đến lúc nào đó qua trải nghiệm tiến trình 

“Thấy được Sự thật đã có sẵn trong trời đất!” 



Đạo rất bình thường, trong sáng không gì bí mật ! 

Thời đại công nghệ, 

hãy sống như đi trên dòng sông

Tuỳ duyên đối trị , 

thể hiện tư duy thành thạo, hài lòng 

Học hỏi trân trọng, thích ứng cách linh hoạt! 



Mạnh dạn nhận diện “ Tùng địa dõng xuất “

Trong đau thương với  bản lãnh chân thực, vững vàng 

Mọi nơi mọi lúc, “trực tâm thị đạo tràng” 

Ồ , hoá ra tương giao trong trật tự vận hành

 vốn rất hoàn hảo của pháp! 

 

Huệ Hương 

***************

(1) nhìn lại mình có đủ 3 việc mà Khổng Tử đã tự vấn: 

1- Lặng yên nhớ điều đã học, 2- kiên trì học tập không biết chán, 3- dạy bảo người khác không biết mệt mỏi, ta đã làm được việc nào trong ba việc ấy?(Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện, hà hữu ư ngã tai? )Khổng Tử 

 





Bat Quan Trai_14_4_2024 (35)Bat Quan Trai_14_4_2024 (36)Bat Quan Trai_14_4_2024 (37)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3022)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1398)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 722)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 697)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 890)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1203)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 893)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8920)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 681)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1549)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]