Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu sách mới: Dreams of Tuệ Sỹ (Giấc Mơ Tuệ Sỹ)

10/01/202408:39(Xem: 5053)
Giới thiệu sách mới: Dreams of Tuệ Sỹ (Giấc Mơ Tuệ Sỹ)

Dreams_Thay Tue Sy




Lời giới thiệu cuốn sách "Giấc Mơ Tuệ Sỹ"


Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê.

Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.

Trong cuốn sách này, tôi xếp các bài thơ của Thầy ra 5 phần:

Phần 1: Ngục Trung Mị Ngữ là tuyển tập chứa đựng 18 bài thơ trong tổng số 50 bài Hòa Thượng Tuệ Sỹ viết trong thời gian Thầy bị tù. Đáng tiếc là không ai tìm được 32 bài thơ đã bị mất. Thầy viết bằng tiếng Hán và phiên âm Hán Việt. Tôi dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh.

Tôi chọn dịch 9 bài: Bài số 1, 2, 4 và 13 diễn tả lòng tự tại, vô úy của Thầy, bài số 3 diễn tả tâm từ bi của Thầy, bài số 8 và 9 diễn tả tính khôi hài của Thầy, bài số 10 diễn tả nỗi lo của Thầy, và bài số 16 Thầy kể lại cuộc chiến đấu với chính bản thân 30 năm qua. Cái tâm từ bi, lòng tự tại, vô úy và tính khôi hài (đối đầu với độc ác, vô minh và đê tiện) chỉ có được khi Thầy đã chiến thắng được bản thân.

Phần 2: Những điệp khúc cho dương cầm. Đây là 23 bài thơ ngắn mà Thầy đưa âm nhạc và Thiền vào thơ để tạo thành 23 điệp khúc cho dương cầm.

Phần 3: Tĩnh thất. Đây là 32 bài thơ ngắn được Thầy đặt tên là Tĩnh thất (Phòng Tĩnh tọa). Tất cả những bài thơ này không chỉ chứa đựng ít nhiều Thiền ý trong đó, mà còn phơi bày nỗi lòng của Thầy đối với đất nước.

Phần 4: Thiên lý độc hành. Đây là 13 bài thơ Thầy viết về một chuyến đi vạn dặm của một Thiền sư cô độc, nhưng chuyến đi đó không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.

Phần 5: Giấc mơ của Núi. Tất cả các bài thơ còn lại của Thầy đều được để vào đây và được sắp xếp theo thứ tự ABC.

Cuốn sách này được bắt đầu viết trong mùa lễ Tạ ơn năm 2023, để tạ ơn Thầy về những đóng góp vô giá của Thầy cho thế giới này. Thơ chỉ là một phần nhỏ trong di sản của Thầy, vì thế, trong cuốn sách này tôi có trích thêm phần dịch kinh và khảo luận của Thầy. Nếu có gì sai sót, xin quý vị góp ý, để lần in tới sẽ hoàn hảo hơn. Tôi xin cám ơn trước.

Terry Lee



***


Trong phần giới thiệu cuốn sách này cho độc giả nói tiếng Anh, tôi viết:

This bilingual book includes most of the late Venerable Tue Sy's poems, with explanations and English translations by Terry Lee.
Tue Sy was a Buddhist monk who was sentenced to death by the Vietnamese Communist government, then reduced to 20 years under international pressures, due to his non-violent support of his Church. After 14 years 4 months and 20 days, they persuaded him to sign a plea for pardon, but he bravely announced that they had no rights to judge him, therefore, no rights to pardon him. They were obliged to release him after his 10-day total hunger strike.

His poetry does not contain hatred, only compassion, love and Zen concepts. It is interesting to note that he did not use the Zen language in his poems. Instead, he used the language of the lovers, an insect, or a mustard seed, as in the following examples:
1) Carrying a dream in my heart, I wander, wondering,
Where can I find the moon to pick it down for you?
2) The cicadas’ melody bounces back, rippling on cue notes,
The tears of their summer mourning are drying up the ocean.
3) A thousand years ago, I went up those mountains,
A thousand years later, I went down these stairs.
The mustard seed’s eyes are wide opened:
“Where are your footprints?”

He passed away on November 24, 2023. In his will, he left 8 words:

"The world has end; my vows are infinite."
But he did not state what his vows were.
Likewise, more than 2,500 years ago, the Buddha gathered his disciples together for a talk on Dharma. Instead of speaking, however, the Buddha simply held up a lotus flower in front of him without saying a word. Everyone in the assembly was baffled, but one of them, Mahakasyapa, suddenly understood the Buddha’s meaning and smiled. The Buddha said,
“I possess the true Dharma eye, the marvellous mind of Nirvāṇa, the true form of the formless, the subtle Dharma gate that does not rest on words or letters but is a special transmission outside of the scriptures. This I entrust to Mahakasyapa".

I believe Venerable Tue Sy confided his vows in his literature.
In the book Śrīmālādevī Siṃhanāda Sūtra that Venerable Tue Sy translated and explained, he cited Mrs. Śrīmālā's 3 great wishes:

1) May I bring peace to innumerable and unlimited living beings.
2) May I explain the True Dharma, for the sake of all living beings without wearying.
3) May I abandon body, life, and wealth to uphold the True Dharma.
I read from his poetry that these 3 great vows were also his vows, even though he had not accomplished the first vow.
I challenge you to find his vows in his poetry.

***


Bài thơ Luống Cải Chân Đồi.

Vác cuốc xuống chân đồi
Nắng mai hồng đôi môi
Nghiêng vai hờn tuổi trẻ
Máu đỏ rợn bên trời

Sức yếu lòng đất cứng
Sinh nhai tủi nhục nhiều
Thân gầy tay cuốc nặng
Mắt lệ nóng tình yêu

Thầy tóc trắng bơ vơ
Con mắt xanh đợi chờ
Đèn khuya cùng lẻ bóng
Khúc ruột rối đường tơ

Tuổi Thầy trông cánh hạc
Cánh hạc vẫn chốc mồng
Mắt con mờ ráng đỏ
Ráng đỏ lệ lưng tròng

Chân đồi xanh luống cải
Đời ta xanh viễn phương
Sống chết một câu hỏi
Sinh nhai lỡ độ đường.



Giải thích

Bài này Thầy phụ đề là Thầy viết năm 1975, chắc là sau khi Thầy ra Nha Trang cứu trợ đầu năm 1975 rồi Thầy ở đó luôn cho tới năm 1977 mới về Sài gòn. Như vậy thì hoàn cảnh sáng tác bài thơ này rất có thể là tiếng nói nhẹ nhàng cho số phận của đất nước mình sau biến cố 1975. Những người còn ở lại Việt Nam khi đó cũng “thân gầy, tay cuốc nặng” trên vùng kinh tế mới, còn cha, mẹ già của họ cũng “tóc trắng bơ vơ” ở lại thành phố, bám víu ở đó, oái oăm thay, để cứu trợ cho những người bị đày đi kinh tế mới. Hiểu như vậy thì bài thơ này đâu phải Thầy viết để than vãn về hoàn cảnh của Thầy đâu, mà viết cho chúng ta, những người mà tiếng nói đã bị dập tắt sau 1975, bị đuổi lên vùng kinh tế mới, thân phận kiến ruồi, bỏ cha mẹ già ở lại nhà.



Ở phân đoạn 3, tôi đứt ruột với 2 câu thơ của Thầy.

Thầy, tóc trắng bơ vơ
Con, mắt xanh đợi chờ

Tôi dịch, cố gắng giữ sự đối xứng của 2 câu thơ:

My father, white haired, was desolate.
I, exhausted eyes, was awaiting.

Chữ xanh mắt ở đây không phải là mắt màu xanh, vì ở câu dưới, Thầy đã khẳng định là mắt đỏ (mắt con mờ ráng đỏ). Xanh đây là xanh xao, mỏi mệt (pale, tired, exhausted).



Đèn khuya cùng lẻ bóng
Khúc ruột rối đường tơ

có nghĩa là cả 2 chúng ta cùng lẻ bóng (đơn chiếc) và cùng đứt ruột nhớ nhau, tôi dịch là “Our broken hearts were twisted by tangled threads”, vì đau ruột, đau lòng tiếng Anh là broken heart.

Ở phân đoạn 4,

Tuổi Thầy trông cánh hạc
Cánh hạc vẫn chốc mòng



Ông Nguyễn Bá Chung, trong cuốn Dreaming the Mountain, dịch:

My father dreams a crane's wings
The crane is dreaming too

Nghĩa đen là

Cha tôi mơ mộng đôi cánh chim hạc
Chim hạc cũng mơ mộng



Chữ "cánh hạc" dùng để chỉ những người cao niên, vì thế, "tuổi Thầy trông cánh hạc" là tuổi Thầy thấy đã già. Chữ "trông" là trông thấy, không phải trông chờ, mơ mộng (dream). Dịch "cánh hạc" là crane's wings, chẳng khác gì dịch "không sao đâu" là "no star where".



Còn "chốc mòng" là trông đợi đến mắt bị nổi mòng, ý nói trông đợi mỏi mòn (chốc = chốc lở, mòng = mòng mắt). Từ "chốc mòng" đã được cụ Nguyễn Du sử dụng trong truyện Kiều:

Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.

Không biết ông Chung nghĩ sao mà dịch "cánh hạc cũng chốc mòng" là "the crane is dreaming too"?

Để dịch chữ “chốc mòng”, tôi chọn một câu thành ngữ của tiếng Anh, đó là “a sack on the shelf”. Tự điển Cambridge giải thích chữ “on the shelf” là người già, không có ai để ý tới, đối với đàn bà thì đã quá tuổi lập gia đình (not noticed, if someone, usually a woman, is on the shelf, she is not married and is considered too old for anyone to want to marry her).

Thi sĩ người Mỹ da đen Maya Angelou, người được Tổng thống Clinton mời đọc thơ của bà trong ngày lễ nhậm chức của ông đầu năm 1993, trong bài thơ “On Aging” (Tuổi già), viết “like a sack left on the shelf” để chỉ những người già cô đơn, bị bỏ quên, như bao bố bị bỏ quên trên kệ.



When you see me sitting quietly
Like a sack left on the shelf.

Tôi dịch:



Vegetable beds at the foothills

Hoe on my shoulders as I go down the hill,
The morning sun makes my lips red.
My shoulders tilt: How I miss my youth!
The sky appears blood red.

Weak arms against hard soil,
There are embarrassing indicators about my livelihood.
The slim body against the bulky hoe,
My wet eyes are warmed by my love of this place.

My father, white haired, was desolate.
I, exhausted eyes, was awaiting.
We were both lonely in the late evenings.
Our broken hearts were twisted by tangled threads.

Father, in his golden years,
Like a sack left on the shelf.
My eye sockets are bloodshot,
As they are filled with tears.

The foothills are now covered with green vegetable beds.
But my life is further afield.
My livelihood has pushed aside
The question of life and death.



Mộng ngày


Ta cỡi kiến đi tìm tiên động,
Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ,
Cóc và nhái lang thang tìm sống,
Trong hang sâu con rắn nằm mơ

Đầu cửa động đàn ong luân vũ,
Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ.
Thẹn hương sắc lau già vươn dậy,
Làm tiên ông tóc trắng phất phơ.

Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống,
Ta trên lưng món nợ ân tình.
Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc,
Cũng tình chung tơ nắng mong manh.

Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh,
Ngoài hư không có dấu chim bay.
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?

Ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc,
Đường ta đi, non nước bồi hồi.
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc,
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi.

Non nước ấy trầm ngâm từ độ,
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô.
Ta đi tìm trái tim đã vỡ,
Đói thời gian ta gặm hư vô.



Giải thích

Đọc “ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc”, gọi kiến mà mây bay lại, khiến tôi có cảm tưởng như đang đọc thơ của Phó Đại Sĩ, một thiền sư nổi tiếng của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5. Bài thơ có câu:

人從桥上过
桥流水不流

Nhân tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu.

Người trên cầu qua lại
Cầu trôi, nước chẳng trôi.


Câu thơ “ngoài hư không, có dấu chim bay” của Thầy khiến tôi liên tưởng đến câu chuyện khi hai thầy trò Mã Tổ Đạo Nhất và Bách Trượng Hoài Hải (thế kỷ thứ 8) đi dạo, thấy một đàn chim bay qua, thì Mã Tổ mới hỏi Bách Trượng là đàn chim đâu rồi, thì Bách Trượng trả lời là chúng bay mất rồi. Ngay lập tức, Mã Tổ vặn mũi của Bách Trượng thật mạnh và hỏi “hà tằng phi khứ?” ( 何曽飛去, từ vô thủy đến nay chúng có bao giờ bay mất đâu?), khiến trong cơn đau điếng, Bách Trượng chợt ngộ đạo. Vì thế, tôi dịch câu thơ của Thầy là nơi hư không đó, dấu chim bay luôn luôn có ở đó, chẳng bao giờ biến mất.

Bài thơ 'Mộng Ngày' có 6 phân đoạn.

Trong phân đoạn 1, tôi dùng chữ “where death does not exist” để tả cõi trường sinh, thay vì chữ eternal, vì tôi muốn nhấn mạnh ý của Thầy là nơi đây bất sinh, bất diệt. Mọi hoạt động ở đây đều được diễn tả bằng thì hiện tại (present time), thay vi quá khứ (past time). Toàn bộ câu chuyện trong bài thơ đều được dich ở thì hiện tại, như đang xảy ra, thay vì đã xảy ra. Tiếng Việt không chia thì như tiếng Anh, nên khi dịch qua tiếng Anh ở thì hiện tại, tôi hy vọng đã đoán đúng ý Thầy.

Trong phân đoạn 2, Thầy tiếp tục cho chúng ta thấy sự yên bình bề ngoài ở cõi tiên. Thầy muốn nói dù bất sinh bất diệt, nơi đây tham vọng và ganh tỵ vẫn cỏn. Vì thế, tôi dịch 3 chữ “thẹn hương sắc” của Thầy bằng một câu dài “ashamed of their inferior colors and smell”. Thầy chỉ muốn mượn cõi tiên để diễn tả cõi lòng của Thầy đối với đất nước, nơi tham vọng và ganh tỵ hiện hữu, mà Thầy sẽ viết trong những đoạn sau.

Trong phân đoạn 3, Thầy cho biết Thầy đang mang món nợ trên lưng Thầy. Đó là nợ Tổ quốc, một trong tứ ân của đạo Phật. Câu thơ của Thầy là: “Ta trên lưng món nợ ân tình”, thì rõ ràng là món nợ ân tình Thầy mang trên lưng Thầy, vậy mà không hiểu sao nhiều người dịch là Thầy đeo món nợ đó lên lưng con kiến? Đeo món nợ của mình lên lưng kẻ khác? Tôi chắc chắn Thầy không làm chuyện đó. Ý nghĩa của bài thơ ở đoạn này là Thầy cưỡi trên lưng con kiến, và Thầy đeo trên lưng Thầy món nợ Tổ quốc. Chữ “tổ quốc” được lập đi lập lại ở 2 câu kế tiếp: “Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc” có nghĩa là Thầy cũng lạc loài mất nước, như bầy kiến kia mất tổ. “Cũng tình chung tơ nắng mong manh” có nghĩa là Thầy cũng yêu đất nước của Thầy như bầy kiến kia yêu tổ. Tình yêu này sao lại mong manh như tơ nắng? Đừng thấy tơ nắng mong manh mà coi thường nó. Có ai mà cắt đứt được tơ nắng không? Đây là tơ nắng, chứ không phải tia nắng. Cái khác biệt rất lớn, vì sợi tơ có thể trói buộc được.

Trong phân đoạn 4, trên đường đi tìm cõi tịnh, nơi chim đã bay qua nhưng dấu vết luôn còn đó để ta có thể theo dấu đó mà tìm tới. Đó là cõi giác mà thiền sư Bách Trượng tìm thấy khi sư thấy được dấu chim bay. Với lòng yêu quê hương tha thiết, cõi tịnh của Thầy là nơi quê hương ta đó, ngày nào tâm tư thắp sáng, thay cho ánh mặt trời.

Trong phân đoạn 5, Thầy diễn tả lòng yêu nước của Thầy nồng nàn tới nỗi cảm động cả mây trời và đất nước. Không thể có gì cản trở được đường Thầy đi. Khi Thầy lột trần quá khứ tội ác Cộng sản đối với đất nước, thiên thần cũng phải kinh ngạc. Như đã viết ở trên, không biết là thiên thần kinh ngạc về hành động can đảm của Thầy, hay họ kinh ngạc về sự tàn ác của Cộng sản, hay cả hai.

Trong phân đoạn cuối, tôi hiểu chữ “trầm ngâm” của Thầy là stalemate (đóng băng, bế tắc), và “lửa rừng khuya yêu xác lá khô” là cháy dữ dội. Đó là biến cố 30/4/75. Còn biến cố nào mà cháy dữ dội hơn, tàn phá hơn biến cố 30/4? Trong bài này, Thầy chỉ dùng chữ “trầm ngâm” để diễn tả những ngày sau biến cố đó, nhưng trong bài Bài ca cuối cùng Thầy viết xót xa lòng hơn:

Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
...
Đêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời

Bà mẹ móc tim con lấy ngọc để sống? Không phải Thầy tưởng tượng đâu bạn, những chuyện cha mẹ phải bán con để sống không thiếu ở cái xứ ra ngõ gặp anh hùng này. Đau đớn thay cho một dân tộc đã bị lường gạt đến không còn sinh lộ!

Từ ngày đó, vì đất nước đã bị đóng băng, bế tắc, Thầy không ngừng đi tìm lại trái tim Việt Nam đã vỡ nát, dù đói khát cũng không làm Thầy nản chí.

Tôi dịch chữ “hư vô” trong câu chót của bài thơ “đói thời gian ta gặm hư vô” là emptiness, thay vì nothingness. Nothingness phủ nhận sự hiện hữu của tất cả mọi thứ, cả không gian và thời gian, còn emptiness không phủ nhận sự hiện hữu của chúng mà chỉ giữ cho tâm mình được trống vắng tuyệt đối, không bị lay động bởi ngoại cảnh. Giấc mơ có thực, không phải là nothing. Giấc mơ, dù về mặt vật chất thì chúng trống rỗng (empty), nhưng chúng là những hình ảnh sống động. Chắc chắn nhiều người đã nhiều lần la hét và đổ mồ hôi trong mơ.

Cuối cùng, tôi dịch tựa bài thơ là Daydream, thay vì Day Dream, vì dream xảy ra khi ta ngủ, còn daydream xảy ra khi ta thức.

Daydream

On the back of an ant, searching for a sanctuary,
Where death does not exist, I find a herd of butterflies fluttering,
And some toads and frogs wandering around, looking for food,
While deep in its cave, a snake is daydreaming.

At the entrance, dancing round the forest flowers are a swarm of bees,
Proudly showing off their beautiful colors and attractive perfume.
Ashamed of their inferior colors and smell, the reeds’ flowers stand up,
Looking like old angels’ white hair, wavering in the wind.

Here are some ants running around, searching for their homelands.
With a heavy debt of love that I carry on my back,
I also find myself homeless, sharing the same fate with the ants,
And the love for our homelands, which is as fragile as sunlight threads.

I ask my ant where the tranquil world beyond the void is,
Where traces of bird flights can always be seen,
And from the darkness of our suffering Earth,
Rises the light of hope, in lieu of sunlight?

I call the ants, but the silver clouds loosely arrive instead,
And my homeland trembles following my path.
The angels look surprised when I stripped off my country’s past,
And her dream fruit broke in half when I bit the limitless.
My country has been in stalemate,
Since the day her forests were furiously burnt down.
In search of her broken heart,
I’ll bite the emptiness when I’m hungry for time.






🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Cảm ơn Giáo Sư Toán học Terry Lee đã viếng thăm Tu Viện Quảng Đức và gởi tặng tập sách giá trị này mà anh đã dày công dịch thuật và chú giải những áng thơ trác tuyệt "Giấc Mơ" của Ôn Tuệ Sỹ. Phải nói rằng đây là một công trình tim óc mà anh Terry đã cống hiến cho quý đọc giả gần xa yêu thích thơ của Ôn Tuệ Sỹ. Ngôn ngữ trong thơ của Ôn dùng luôn là áo nghĩa, ẩn ngữ và quá điêu luyện, khiến người đọc khó hiểu, nay nhờ bản dịch tiếng Anh và những lời giải thích của anh, đọc giả mới vỡ òa.... Càng đọc thơ tập này của Ôn, người đọc càng thấu rõ hơn về những ước mơ, hoài bảo và chí nguyện của Ôn dành cho xứ sở và nền Phật Giáo Việt Nam trong thời hiện đại.


Kính mời quý độc giả order sách quý này ở Amazon link:

https://www.amazon.com.au/s?k=Dreams+of+Tu%E1%BB%87+S%E1%BB%B9&crid=2QKQNI5IP5ZL1&sprefix=dreams+of+tu%E1%BB%87+s%E1%BB%B9%2Caps%2C211&ref=nb_sb_noss_1

giac mo tue sy-2
🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

terry lee
***


Kính mời vào xem:
Lễ Tưởng Niệm Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu


hoa thuong tue sy (91)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 4058)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4668)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6375)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87524)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137729)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4029)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3852)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24662)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11640)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6643)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]