Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Kỳ Đồ Giả

30/10/202310:45(Xem: 2055)
Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Kỳ Đồ Giả


hang that hang gia


Chúng Ta Đang Sống
Trong Thời Kỳ Đồ Giả



            Nhân loại cách đây khoảng vài triệu năm sống trong Thời Kỳ Đồ Đá (Stone Age). Đánh nhau chỉ ném đá, chắc chỉ bị thương và chết chẳng bao nhiêu. Rồi từ từ tiến lên Thời Đại Đồ Đồng (Bronze Age). Mũi giáo, mũi tên được chế bằng đồng, chắc đánh nhau chết khá nhiều. Rồi bắt đầu văn minh tiến vào Thời Kỳ Đồ Sắt (Iron Age) gươm, đao, cung nỏ đều bằng sắt, đánh nhau chết khá bộn. Rồi càng văn minh hơn nữa chế ra thuốc nổ, bắt đầu có súng, lựu đạn, bom, mìn. Đệ I Thế Chiến chết hơn 10 triệu người. Đệ II Thế Chiến chết khoảng 50 triệu người. Chỉ riêng hai trái bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki đã giết khoảng 100,000 người.

            Rồi nhân loại càng văn minh hơn nữa tiến vào thời đại điện tử (Electrical Age) rồi siêu kỹ thuật (High Tech) và trí tuệ  nhân tạo (Artificial Intelligence) biến con người thành người máy chỉ cần bấm nút và  có thể hủy diệt trái đất trong chớp nhoáng. Báo chí Hoa Kỳ cho biết, một binh sĩ ngồi ở căn cứ quân sự ở Tiểu Bang Florida có thể điều khiển máy bay không người lái ở A Phú Hãn, phóng hỏa tiễn giết chết một người đang chạy dưới đất, dù trong đêm tối.

            Song song với siêu kỹ thuật và trí tuệ nhân tạo, con người phát triển- đã và đang đi vào một thời kỳ thật kinh hoàng đó là Thời Kỳ Đổ Giả (Fraud Age) do cái tâm điên đảo mà ra.

            Ngày xưa cả triệu năm và cho tới Thời Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution) khoảng năm 1820-1840 con người không có gian trá hay ít có gian trá. Hiện nay con người đang ung dung ngụp lặn trong Thời Kỳ Đồ Giả và vui sướng với đồ giả. Cứ thử nhìn vào xã hội mà xem có bao nhiêu thứ đồ giả và bao nhiêu con ngươi gian trá. Xin đơn cử vài thí dụ:

1)Trên thương trường có:

            Vàng giả, tiền giả, kim cương giả, đồng hồ giả, săng giả, thuốc giả. Giầy da, nệm da tưởng da thật. Khách mua cứ tưởng da thật, vài năm sau trầy sướt mới biết đó là da giả làm bằng giấy.

2)Trong học đường, quan trường, xã hội có:

            Bằng cấp giả dùng để thăng quan tiến chức, lừa bịp bạn bè, đóng tuồng trí thức, vênh vang với đời. Ở hải ngoại này có quá nhiều tiến sĩ (Ph.D của Mỹ), không biết trong đó có bao nhiêu “tiến sĩ giấy” Thậm chí còn có bác sĩ giả từ Nam Hàn qua mở thẩm mỹ viện giải phẫu khơi khơi ở Hà Nội, làm chết người rồi trốn mất.

3)Trong giao dịch có:

            Dự án giả, công ty giả, giấy tờ giả mạo để lường gạt, trốn thuế. Một căn nhà có thể bán cho hai người. Mướn xe hơi về làm giấy tờ giả bán cho hai ba người.

4) Hệ thống thông tin, truyền thông, mạng xã hội có:

            Tin tức giả, tung tin bịa đặt tin để lũng đoạn, triệt hạ hàng ngũ địch, mưu đồ chuyện xấu. Mỗi ngày trên thế giới có cả triệu tin giả lan tràn trên Internet mà giới nghiên cứu Anh Quốc nói rằng nó như những đợt sóng thần đè bẹp cả hệ thống truyền thông chân chính. Tâm lý con người rất lạ. Dù biết đó là tin giả nhưng vẫn thích đọc và lan truyền vì nó hợp với ý thích (khẩu vị) của mình. Hầu hết hình ảnh của các cô gái tung lên facebook, youtube, twiter, tiktok đều là chỉnh sửa. Gái 30 biến thành 18. Đàn bà 40 biến thành gái trẻ 20. Bà già 50,60 biến thành gái 30. Tôi vì ngu độn cho nên chẳng hiểu họ tung lên như vậy để làm gì?

5) Giữa quốc gia với quốc gia, con người với con người có:

            Đạo đức giả. Nói lời cao quý như bình đẳng, tự do, dân chủ nhưng hành động như một đế quốc. Nói lời nhân nghĩa nhưng bên trong hành động xấu xa. Khen nhưng trong bụng chê. Ghét thấu trời nhưng khi kẻ đó chết cũng sùi sụt kiểu “nước mắt cá sấu”, toàn đóng bộ mặt giả nhân giả nghĩa . Báo chí thế giới đưa lên hình ảnh Tổng Thống Obama, bà thủ tướng Bỉ và ông thủ tướng Anh Cameron tham dự tang lễ cựu Tổng Thống Nam Phi Mandela, chẳng nhỏ lệ sót thương gì hết mà chỉ đùa rỡn, ngồi xúm lại chụp hình selfie mà trong nước gọi là “chụp hình tự sướng”. Ba ông bà này đều là các siêu cường cho nên thế giới không dám chỉ trích vì sợ bị đưa vào danh sách đen, cấm vận hay lật đổ.

6) Rồi đời sống hàng ngày có:

            Giả ăn mày để sống bằng tiền của người bố thí. Ăn mặc giả sư để xin tiền hay lường gạt người nhẹ dạ. Giả cảnh sát để đi ăn cướp, tống tiền. Đưa hình giả, lý lịch giả, tài sản giả lên Facebook, Twitter, Tiktok để lường gạt ái tình. Ở Nhật có một người đàn ông giả vờ yêu và hứa làm đám cưới với tám bà để nhận quà tặng. Người ở trong nước nhưng đóng giả Việt kiều để lường gạt.

7) Rồi trong sâu khấu ca hát:

            Hát nhái bằng cách thu băng trước rồi ra sân khấu nhép miệng. Khán giả tưởng hát thật nhưng là hát giả. Sáng tác nhạc nhưng thật ra là nhạc thuổng từ những bản nhạc cũ mà chỉ sửa đi chút đỉnh. Nhạc bây giờ cả trăm bản gọi là “sáng tác”, nhưng bản nào cũng giống bản nào.

8)Trong văn học:

            Ăn cắp tác phẩm, ăn cắp luận án của người khác rồi đem trình hoặc đem in và nói đó là của mình. Ngày nay ăn cắp sách vở của người khác dễ lắm vì cái gì cũng có trên Internet. Chỉ cần download (đưa xuống máy) rồi sửa chữa vài câu rồi đem in là xong, vừa có tiền vừa nổi tiếng là “học giả”.

9) Nhà hàng, quán ăn có:

            Tưởng là cua nhưng cua giả. Tưởng là thịt nhưng thịt giả. Trông như yến mà thực ra là dao câu, thạch trắng. Nói là vi cá nhưng vi cá giả. Bắp đem rang cháy đen làm cà phê giả. Sầu riêng vỏ xanh mướt nhưng nhờ ngâm thuốc hóa học. Hàng hóa giả mạo, hàng nhái tràn lan trên thị trường. Ai thích đổ rẻ sẽ mua phải đồ giả.


10) Còn trên thân thể đàn bà có bao nhiêu thứ đồ giả?

-Tóc giả đủ kiểu, xanh đỏ trắng tím vàng, hung hung, nâu, đen, râu ngô đều có.

-Lông mày cạo đi, xâm trổ để có lông mày đẹp nhưng đó là lông mày giả.

-Mắt chớp chớp trông dễ thương nhưng đó là lông mi giả.

-Môi cong cong, hay vều lên trông hấp dẫn, gợi dục nhưng đó là môi đã nhờ bác sĩ cắt sửa.

-Vú bơm lên bằng silicon rồi có sú-chiêng nâng lên trông vô cùng hấp dẫn. Nhưng đó là vú giả.

-Mông trông cong lên nhưng bên trong mặc quần bó chẽn độn lên bằng một lớp cao su. Đó là mông giả.

-Móng tay, móng chân dài, màu thật đẹp nhưng đó là móng tay giả.

-Tai, cổ, tay đeo đầy nữ trang nhưng đó là nữ trang giả.

-Lùn thấp nhưng đi giày cao gót lên 10 phân, tưởng là gái “chân dài”. Lấy rồi mới vỡ lẽ ra em lùn quá bèn nạp đơn ly dị. Cậu trai nào muốn biết người yêu cao thật hay cao giả, chỉ cần mời đi tắm biển là biết ngay.

-Thậm chí một số nam diễn viên sân khấu cũng nhuộm tóc, căng da mặt, sửa mí mắt để làm cho trẻ lại. Một sự trẻ trung giả tạo. Xin nhớ, già cũng có cái đẹp của già. Cây kiểng/cảnh càng già càng giá trị. Đồ cổ càng lâu càng giá trị. Nhiều tư tưởng mới ồn ào xuất hiện rồi chết ngỏm. Còn tư tưởng cũ cách đây vài ngàn năm vẫn là “Khuôn vàng thước ngọc” cho con người.

            Chuyện “gái nhà lành giả” cũng tạo cười đau khóc hận. Gặp một cô mặt mày đẹp đẽ là nữ tiếp viên hàng không. Hỏi em yêu ai chưa? Em nói em là con gái nhà lành, chưa yêu ai. Lấy rồi mới vỡ lẽ ra em đã từng là gái gọi (Call Girl). Ra tòa xin ly hôn được không? Trong nước thì tôi không biết. Nhưng luật gia đình của của Pháp mô phỏng theo Luật Cổ La Mã quy định rằng: “Trong tình yêu tha hồ lừa dối” (Dans le marriage il trompe qui peut”. Nếu người đó nói mình là đại gia, khi lấy rồi mới vỡ lẽ anh chàng chỉ là gã lêu lổng không nghề nghiệp… thì không thể nạp đơn ly dị. Khi hai người yêu nhau, người đàn bà cho tình nhân trẻ  50,000 đô-la. Lấy rồi, bất hòa đòi lại tiền thì không được. Anh chàng Việt kiều hứa với người yêu là cưới xong anh xong anh sẽ cho em trai của em số tiền lớn để làm ăn. Lấy rồi không có gì hết mới biết mình bị lường gạt. Làm đơn ly hôn với lý do này không được. Gặp người con gái đi guốc cao, tưởng là “chân dài”.Về nhà té ra em lùn quá thì không được nạp đơn ly dị với lý do này. Gặp anh chàng hào hoa mang lon đại úy. Lấy rồi mới vỡ lẽ ra anh ta chỉ là trung sĩ…thì không thể nạp đơn xin ly dị. Cho nên muốn lấy ai thì phải “điều tra” cho cặn kẽ kẻo lấy phải đồ giả. Và nhất là chớ tin lời “hứa”. Các cụ ngày xưa nói, “Lấy vợ xem tông (tông tích, lý lịch, nguồn gốc) lấy chồng xem giống.” Cái gì chân thật dù nghèo cũng tốt. Hứa lèo, hứa cho cố mạng chắc chắn là đồ giả.

                Tôi không hiểu tại sao con người càng văn minh và kỹ thuật càng tiến lên lại càng gian trá và sống vui, ngụp lặn trong gian trá và giả dối? Tất cả những giả dối này không phải do Trời hay Thần Linh xui khiến mà do cái tâm quay đảo, do tham-dục của con người.

            
Trong Kinh Viên Giác (*), Đức Phật dạy ngài Di Lặc Bồ Tát rằng, “Chúng sinh do gốc tham dục cho nên mới phát huy ra vô minh.” Đức Phật dạy ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng, “Tất cả chúng sinh từ trước đến nay theo các món điên đảo cũng như người mê lầm, bốn phương đều quay đổi.”

            
Thật đúng như vậy. Tất cả chúng ta đều vì vô minh mà tưởng rằng cái Tôi, cái Ngã hay con người này có thật cho nên yêu mến cái tôi. Từ yêu mến cái tôi mà tìm cách phụng sự  nó bằng cách đắp lên người, đeo lên mình những gì giả dối để thỏa mãn xác thân và hy vọng được người ta thèm khát, ngưỡng mộ. Cho nên tất cả những ai thấy Cái Tôi không thật hoặc không yêu chuộng thân mình quá đáng thì không bao giờ đắp lên người những đồ giả. Chúng ta thử nhìn xem, các ni cô, các sơ (soeur/sister) có bao giờ cạo lông mày, đeo lông mi giả, đi giày cao gót, nâng mông, sửa ngực, trát phấn bôi son không?

            
Xã hội càng văn minh con người càng sống trong ảo tưởng. Ảo tưởng về giá trị, về vẻ đẹp, ảo tưởng về sự sang cả, tăm tiếng và giàu có. Mà muốn có sự sang cả thì phải bồi đắp cho thân hình. Vì mình không có giá trị cho nên phải khoác lên mình giá trị giả tạo. Trí thức chưa đủ cho nên phải dùng bằng cấp giả. Tình yêu chưa có, chưa đủ để người ta tin cho nên phải lường gạt và hứa nhăng hứa cuội. Vì mặc cảm xấu cho nên phải sửa sang sắc đẹp. Tất cả đều sống trong giả dối chỉ vì ảo tưởng về giá trị.

            
Còn tất cả những ai sống bằng đạo đức họ có lường gạt, gian dối người khác không? Những người sống trong đạo đức không cần phải làm những gì vĩ đại mà chỉ cần “Sống với những gì mình thật có”. Sống với những gì mình thật có chính là đạo đức:

-Mình nghèo thì cứ nói mình nghèo. Nghèo không phải là cái tội và nghèo không có nghĩa là hèn và chớ làm điều xằng bậy như lường gạt, gian trá. Biết bao  nhiêu người lúc nhỏ nghèo sau trở thành tỷ phú. Là con người, điều đáng sợ nhất không phải là nghèo mà là không có nghị lực và trí tuệ.

-Mình học không cao hoặc không được học thì cứ nói thật, đừng dùng bằng cấp giả. Cứ kiên trì và từ từ học lên rồi cũng như người ta. Kiến thức, bằng cấp tuy quý nhưng đạo đức lại quý hơn.

-Mình xấu thì cứ nhận mình xấu có sao đâu. Nhiều người xấu nhưng tài năng và đức độ rất cao. Tôi đã từng thấy nhiều bà nhiểu cô không đẹp lắm nhưng lấy được chồng rất sang. Hầu hết vợ của các tổng thống, thủ tướng trên thế giới đều là các bà có sắc đẹp trung bình. Vậy xin chớ mặc cảm vì vẻ đẹp của mình. Cụ Mạc Đĩnh Chi là người xấu mà lưu danh thiên cổ. Ô. Yến Anh người thấp bé mà thông minh tuyệt đỉnh sau làm tể tướng nước Tề. Biết bao kẻ có khuôn mặt khả ái mà làm điều xằng bậy và cuộc đời ba chìm bảy nổi. Hầu hết những cô gái bán dâm ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có khuôn mặt đẹp. Vậy thì đẻ con gái đẹp chớ vội mừng. Đẻ con gái xấu chớ vội buồn.

-Giáo sĩ, tu sĩ rao giảng về những gì không thể làm được, không tưởng… cũng là lừa mị, gian dối. Do đó Đức Phật dạy chúng ta phải thực hành Bát Chánh Đạo trong đó có Chánh Ngữ tức nói lời chân thật, nói lời có thể kiểm chứng, không nói lời hoang tưởng. Tất cả các tà giáo đều nói lời hoang đường lừa mị.

            Trong rất nhiều pháp hội Đức Phật đều dạy rằng: Tâm chúng sinh vốn hư dối cho nên tất cả những gì đang hiện ra trước mắt đây đều do cái tâm giả dối ấy sinh ra mà chư Tổ gọi là “Nhất thiết duy tâm tạo”. Tâm bất chính cho nên đẻ ra việc làm giả dối. Tâm hư dối cho nên yêu điều giả dối và phổ biến những gì giả dối. Tâm chân thật hay chân tâm thì làm và yêu những gì chân thật. Cho nên muốn giã từ Thời Kỳ Đồ Giả thì chỉ còn cách tu tâm. Ngoài việc tu tâm thì chẳng có pháp đối trị nào khác.

            Thời Kỳ Đồ Giả đang tung hoành và thống trị loài người nhưng loài người lại vui thích với nó. Nếu không chịu tu tâm ngay từ bây giờ, với đà tiến lên như thế này, không biết nhân loại sẽ đi về đâu? Dường như nhân loại đã mất cả phương hướng vì đang chìm đắm trong cơn mê dài. Đó là cơn mê Danh Vọng, Quyền Lực, Tiền Tài, Sắc Đẹp và Lạc Thú.

Thiện Quả Đào Văn Bình

           

(*) Kinh Viên Giác bản dịch của Cụ Thích Huyền Cơ năm 1952

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24825)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9575)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11683)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3687)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5614)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3347)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 11234)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3826)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15361)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3622)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]