Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư và Người Ngoại Đạo

20/12/202204:06(Xem: 2940)
Thiền Sư và Người Ngoại Đạo

thien su

Thiền Sư và Người Ngoại Đạo




            Có một người ngoại đạo tới nói với thiền sư như thế này:

-Thưa thầy, đạo của chúng tôi có cả ngàn vị thánh, còn Đạo Phật không có vị thánh nào. Thầy nghĩ sao?

            Thiền sư nhẹ nhàng hỏi:

-Trong đạo của ông, người ta đã làm gì để trở thành thánh?

            Người đàn ông đáp:

-Bất cứ ai suốt đời phục vụ giáo hội, tử vì đạo hay sẵn sàng tử vì đạo, tham gia thánh chiến sẽ được phong thánh.

            Thiền sư nói:

-Đạo của chúng tôi, thánh là bậc làm những việc mà phàm phu khó làm hay không làm được. Bất cứ ai bỏ được Tham-Sân-Si sẽ nhập dòng thánh.

            Nghe vậy, người đàn ông cười nói:

-Bỏ Tham-Sân-Si là chuyện dễ mà.

            Thiền sư cười nói:

-Không dễ đâu. Tôi tu hành từ lúc 20 tuổi, nay đã 80 tuổi mà làm chưa xong. (*)

                Người đàn ông khẽ nhún vai, đứng dậy, chào thiền sư rồi bước ra ngoài. Tháng sau ông ta lại tới chùa gặp thiền sư, nói:

-Thầy nói đúng, Tham-Sân-Si không dễ bỏ.

            Rồi dường như muốn tìm hiểu thêm về Đạo Phật, ông ta hỏi:

-Phật là gì?

            Thiền sư đáp:

-Phật là vị không còn gì để xả bỏ.

            Nghe nói vậy ông ta cười nói:

-Giáo chủ của chúng tôi là một vị thần tối thượng, tối linh, ngài đã tạo ra vũ trụ này, bảo sáng là có sáng, bảo tối là có tối, bảo sống là có sống, bảo chết là chết. Ngài có phép mầu biến cát thành cơm, biến chì thành vàng, biến người mù thành sáng, biến người què thành lành lặn, biến người câm nói được. Đức Phật như vậy có gì là ghê gớm đâu?

            Thiền sư vẫn dịu dàng nói:

-Ông về tập hạnh xả bỏ đi, ba tháng sau tới đây chúng ta sẽ thảo luận tiếp.

            Nghe nói thế, người đàn ông chào sư rối bước ra ngoài. Ba tháng sau ông ta lại tới chùa, nói với thiền sư:

-Tôi đã hiến hết tài sản của tôi cho giáo hội. Tôi chẳng còn gì nữa trên cõi đời này. Liệu tôi có thể là Phật chăng?

            Thiền sư nhẹ nhàng hỏi:

-Hiện giờ ông đang sống với ai?

-Tôi sống với vợ con tôi.

-Ông đi tới đây bằng gì?

-Tôi tới đây bằng xe hơi.

            Tới đây thiền sư bảo chú tiểu:

-Con ra ngoài xem chiếc xe của ông đây còn đó không?

            Giây phút sau, chú tiểu quay vào thưa:

-Bạch thầy, con không thấy chiếc xe đâu cả.

            Nghe nói vậy, người đàn ông hốt hoảng đứng dậy, nói:

-Chắc chiếc xe của tôi bị mất cắp rồi, tôi phải ra xem và trình báo cảnh sát.

            Thiền sư nói ngay:

-Vợ con ông chưa bỏ được. Chiếc xe chẳng đáng bao nhiêu mà ông chưa bỏ được, vậy làm sao ông có thể thành Phật?

Lời người kể chuyện:

            Đức Phật là vị chẳng còn gì để xả bỏ:

-Chẳng còn vợ con, của cải, ngôi vị , chức danh để xả bỏ.

-Chẳng còn túi tham để xả bỏ.

-Chẳng còn lòng si mê để xả bỏ.

-Chẳng còn đầu óc mộng mơ để xả bỏ.

-Chẳng còn lòng ghen tị để xả bỏ.

-Chẳng còn thói kiêu mạn để xả bỏ.

-Chẳng còn một niệm xấu ác trong tâm để xả bỏ.

-Chẳng còn thói nghi ngờ để xả bỏ.

-Chẳng còn niệm phân biệt, kỳ thị để xả bỏ.

-Chẳng còn mối lo để xả bỏ.

-Chẳng còn lạc thú nào để xả bỏ.

-Chẳng còn nỗi buồn nào để xả bỏ.

-Ngay giáo pháp của Đức Phật, ngài cũng khuyên đệ tử phải xả bỏ khi đã chứng đắc giống như chiếc bè đã qua sông.

            Phật luôn luôn ở trong trạng thái Định, tâm an tĩnh, tịch mịch mà chiếu soi, nhìn vạn vật như tấm gương phản chiếu. Hạt mưa trong thế giới Ta Bà Phật đều biết nhưng không  khởi niệm. Nếu có khởi niệm chỉ là Từ Bi, Hỷ Xả và Cứu Độ. Chính vì thế mà Trời, Thần hay các hàng đệ tử của Phật khi thưa hỏi Phật đều thưa, “Thế Tôn hi hữu”.

            Cửa Phật rộng mở cho chúng sinh khắp thế gian, nhưng thành Phật thì hi hữu, thế gian này chỉ có một mà thôi. Đức Phật không có phép mầu, không thể biến cát thành cơm, biến chì thành vàng, không thể làm cho người chết sống lại, nhưng có mười danh hiệu sau đây.

-Như Lai: Có nghĩa là “Không từ đâu đến và cũng chẳng đi đâu”. Đức Phật không từ một cõi nào, cung trời nào tới đây và rồi cũng chẳng trở về đó. Ở đâu cũng có Phật, dù ở  Mặt Trăng hay Hỏa Tinh, không phải xác thân Phật mà là tâm Phật và tánh Phật.

-Ứng Cúng: Xứng đáng thụ nhận sự cúng dường của Trời, Người.

-Chánh Biến Tri: Tức là biết hết, biết một cách tường tận, tròn sáng mọi diễn biến ở thế gian này.

-Minh Hạnh Túc: Tức là đầy đủ trí tuệ và phúc đức. Đức Phật nhập Tứ Thiền để từ bỏ xác thân gỉa tạm này gọi là viên tịch hay nhập Niết Bàn chứ không chết như chúng ta.

-Thế Gian Giải: Có thể giải quyết được những khúc mắc, nan giải của thế gian này. Oan khiên, nghiệt ngã mà vua quan, người đời không giải quyết được, đến chùa thì… mọi hận thù, ân đền oán trả, mất mát, khổ đau đều tiêu tan.

-Vô Thượng Sĩ; Không có bậc trí thức nào qua nổi Phật.

-Điều Ngự Trượng Phu: Có thế thuyết phục được các bậc trượng phu, anh hùng hào kiệt trên thế gian này. Biết bao nhiêu vua, quan, danh sĩ, tế tướng, học giả, sĩ phu đã quy y theo Phật.

-Thiên Nhân Sư; Thầy dạy của cõi Trời và cõi Người.  

-Phật: Là bậc giác ngộ, toàn thiện, toàn giác.

-Thế Tôn: Là bậc đáng tôn kính.

            Không phải chỉ riêng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà tất cả các vị  Phật ở cõi khác đều có mười danh hiệu này. Ngoài ra, các Đức Phật đều có 32 tướng tốt mà người đời không thể có. Khi tạc tượng Phật mà tượng ấy trông giống như người thường, dù người ấy đẹp trai như Phan An, Tống Ngọc hay tài tử Alain Delon hay Robert Taylor… thì tượng ấy không phải Phật. Các nghệ nhân khi tạc hay đúc tượng Phật, vẽ hình Phật, phải hết sức thận trọng.

            Vậy thì tất cả những ai cho rằng mình là Phật xuất thế, Phật sống và có khi hơn cả Phật… hãy nhỉn lại dung mạo mình xấu đẹp như thế nào, nghiền ngẫm mười đặc tính và phẩm hạnh nói trên. (**) Bất cứ ai dùng thần linh, bùa phép, hình danh sắc tướng, lễ nghi huyền bí, âm nhạc du dương, lời nói ngon ngọt, tiền bạc, quà tặng… để chiêu dụ tín đồ thì họ chỉ hành tà đạo chứ không phải đạo Phật (***). Nói tóm lại Phật là trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, từ bi và bình đẳng.



Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 14/12/2022)

(*) Hãy xem giai thoại về thiền sư Ô Sào và Bạch Cư Dị.

(**)Báo chí Tây Phương thường gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là Phật Sống, nhưng ngài nói rằng đừng có bậy bạ mà gọi tôi là Phật Sông. Tôi chỉ là đệ tử của Đức Phật.

(***) Kinh Kim Cang, “Những kẻ dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta những kẻ đó hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.”





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3022)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1398)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 722)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 697)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 890)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1203)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 893)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8920)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 681)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1549)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]