Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

19/12/202219:27(Xem: 2556)
Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

hoa sen dep (3)

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.


Kính dâng Thầy bài viết sau nhiều tháng chiêm nghiệm học hỏi, hy vọng được Thầy giảo nghiệm cách học pháp của con và cho một lời phê. Kính tri ân Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, Hh




Nếu cuộc đời là một dòng sông, có bao giờ bạn nghĩ :
Hành trình trước mặt sẽ dẫn về đâu?
Hiểu được nghệ thuật tồn tại trong sóng nước bao lâu
Khi từng giai đoạn bị nhấn chìm, trôi dạt (1)
Sẽ vượt qua hay phải bỏ lại đến bến bờ khác ?
Sinh mệnh đời người do Tâm tạo tác
Dù nghiệp an bài vẫn…thay đổi được bản thân
Hãy hành thiện, tích đức, biết tri ân
Yếu tố quan trọng nhất :
Điều gì trao đi…chính là những gì sẽ nhận lại!
Vận mệnh bạn cũng nằm trong chính bàn tay
( thơ Huệ Hương)

————-
(1) Theo kinh Tương ưng
Tham ái là chìm xuống và tà kiến là trôi dạt,
thường kiến là chìm xuống và đoạn kiến là trôi dạt,
lười biếng là chìm xuống và phóng dật là trôi dạt,
lợi dưỡng là chìm xuống và khổ hạnh là trôi dạt,
ác pháp là chìm xuống và thiện pháp là trôi dạt.



Lời đầu:

Từ năm 1996 có lẽ tôi đã bị ảnh hưởng nhiều đến những yếu tố mà Unesco đã đề nghị làm chuẩn cho việc học tập đó là: (1- Học để biết, 2- Học để làm, 3- Học để chung sống, 4- Học để tự khẳng định mình) và vì lẽ đó nên khi tiếp xúc bất cứ giới nào trong Đời, Đạo và trong môi trường hoàn cảnh nào tôi cũng tìm cách khám phá những thông tin xã hội  Gần đây nhất khi được tiếp xúc với  giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai tôi đã tìm hiểu nhiều hơn để thích ứng hơn với thời đại mới vào  bản thân và cuộc sống mình cho những ngày sắp tới hầu “hoà quang nhi bất hổn tục “.

Và tôi đã biết phần đông trong giới trẻ thế hệ thứ hai này đang muốn hoà đồng vào một giai cấp gọi là trung lưu nên đã xả thân làm việc rất nhiều giờ và đã uốn nắn thế hệ thứ ba được đào luyện trong môi trường hoàn cảnh ….có nghĩa là học ở một trường grammar nổi tiếng, học âm nhạc dương cầm, violon thật giỏi, gia nhập các trò chơi thể thao hạng sang như golf, tennis, rowing, ….để sau này khi qua được VCE chúng sẽ đi thẳng vào cái gọi là network rất tự nhiên và dễ dàng khi được phỏng vấn tìm việc làm.

Thế nhưng, những ngày tu dưỡng tại Sydney với không gian tĩnh lặng, chỉ nghe pháp thoại và học kinh Tăng Chi bấy giờ tôi lại chiêm nghiệm về điều dạy của Phật rằng: Bất cứ hành trình sinh mệnh nào của một cá nhân, một con người ( không kế xuất gia, tại gia, có học Phật Pháp hay không học) đều phải tuỳ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng nhất đó là:

1-Sở hữu cái NGHIỆP của mình.
2-Khuynh hướng tâm lý do giáo dục và chí hướng riêng của mình ( biết rõ mình tham muốn điều gì và ghét bỏ điều gì, cũng như biết rõ mình biết cái gì và không biết cái gì cùng với tất cả sự nỗ lực của bản thân, sự trợ lực gián tiếp hay trực tiếp của minh sư, thiện hữu).
3-Hoàn cảnh xã hội môi trường mà mình đã trải qua từ lúc thơ ấu, thiếu niên và trưởng thành trong những điều kiện sinh hoạt bối cảnh tu học nào , sống giữa thời đại nào của một khu phố, làng xã trong một quốc gia nào).
Kính xin thưa với các bạn những lời dạy của Phật đúng với mọi thời đại, mọi thế hệ, mọi giai cấp và có lẽ đúng với nhận xét thật xác đáng của cao tăng nào đó rằng …”điều vi diệu trong Phật pháp nằm ở chỗ, dù Thế Tôn có nói nhiều bao nhiêu cũng nhằm vào một lý, và có nói ít bao nhiêu cũng bao hàm vạn sự”
Chính vì điều nhận xét này tôi đã thu nhận giáo pháp của Đức Phật bằng những chữ rất tóm gọn để rồi mang hẳn vào trong đầu ghi nhớ làm tư lương cho hành trình của mình.
A- Cái nhìn
Theo sự chiêm nghiệm những năm tháng dồi mài miên mật trên kinh sách, tôi tự nhủ rằng nếu mình chưa đủ trình độ để có được “Trong cái Thấy chỉ là cái Thấy” thì hãy tự tập để có được 4 cái nhìn thật phóng khoáng như sau :
-)Nhìn từ dưới thấp hướng lên các bậc cao thượng bên trên để học những điều hay lẽ phải của quý Ngài.
-) Nhìn từ địa vị trên đề nhìn xuống phía dưới đẻ thấy được khả năng của họ mà giúp đỡ, hướng dẫn, hộ trì.
-) Nhìn từ bên ngoài đã đối xử với bản thân ta như thế nào để bao dung và tha thứ cho họ.
-) Nhìn vào bên trong của chính bản thân ta để khuyến khích và tự sách tấn nên làm diều thiện tránh làm điều ác và mỗi ngày thanh lọc nội tâm.
Và quả thật điều này trong các kinh điển đều ghi lại “Đức Phật trọn  đời không  biết buồn là gì vì ngay cả một đệ tử chân  chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không  thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận rõ vạn vật” có thể nói : “Đệ tử của Ngài, ai ai cũng đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại,  an nhiên,  tâm hồn thư thái lạ lùng".
B- Duyên
Đức Phật luôn tùy duyên mà thuyết pháp.
Học được rằng “Vạn pháp tuỳ duyên , tuỳ thời tiến thoái, đúc lúc , đúng chỗ “
Duyên là bất cứ động cơ hay điều kiện nào dẫn đến, đưa tới cái gì đó thì rõ ràng toàn bộ lời Phật chỉ nằm trọn trong chữ Duyên.
Và giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo, cuộc luân hồi của vạn loại chúng sinh là một vòng tròn khép kín, không có chỗ bắt đầu hay kết thúc. Từ đó, bất cứ mắt xích nào trong 12 Duyên Khởi cũng có thể là chỗ bắt đầu. Vô Minh hay Xúc, Thọ, Ái,… đều được cả.
Đọc đâu đấy từ một bài viết của người hiểu Đạo, “toàn bộ hành trình tu chứng của một người cầu giải thoát hay kẻ trầm luân xem chừng cũng gói tròn trong một chữ duyên”
Giới hạnh là duyên cho thiền định, thiền định là duyên cho trí tuệ nội quán. và cuối cùng Trí tuệ này là duyên cho người chứng đắc Niết Bàn.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên tạo sanh sẽ bỏ được Đoạn Kiến.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên mà biến diệt sẽ dứt được Thường Kiến.
Bỏ được hai tà kiến này chính là Chánh Kiến, bước đầu của Bát Thánh Đạo, cái duyên dẫn đến thánh trí giải thoát.
C- Luật Nhân Quả
Phật dạy: “Muốn biết quá khứ hay tương lai của một người chỉ cần nhìn những điều người đó đang nhận hoặc đang làm ở hiện tại là có thể biết được”. Qua quy luật nhân quả, Phật dạy ta biết rằng, vận mệnh là do tự bản thân mỗi người nắm giữ, quyết định chứ không phải do thế lực nào tạo nên. Mình tự gieo nhân thì tự gặt lấy quả, tùy theo thiện ác nhiều ít nên có khác nhau
Từ quan niệm nhân quả của Phật chúng ta có thể thấy, những việc hiện tại chúng ta đang nhận là do “nhân” đã trồng trước đây tạo ra. Nhân muốn hình thành nên quả thì ở giữa phải có duyên tức điều kiện. 
“Nhân” đã tạo ra trong quá khứ thì không thể thay đổi được. Cái có thể thay đổi chính là “duyên”, điều kiện để tạo ra kết quả. Nói cách khác, kiếp trước ít nhiều đều làm điều xấu nhưng kiếp này từ bỏ điều xấu làm việc thiện thì ác duyên sẽ đứt. Như vậy chỉ có chính ta mới có thể thay đổi đổi vận mệnh một cách tích cực và sẽ nhận được phước báo.
D- Luôn Chánh Niệm, Tỉnh thức
Chánh niệm có nghĩa là chú ý theo một đường lối đặc biệt: có mục đích, ở trong giây phút hiện tại và không phán xét. Sự chú ý này sẽ nuôi dưỡng một ý thức rộng lớn, sáng tỏ và biết chấp nhận thực tại. Chánh niệm đánh thức ta dậy để nhận thấy sự thật rằng sự sống của ta chỉ có mặt trong giây phút hiện tại này mà thôi.

Mà chánh niệm lại là một nghệ thuật sống tỉnh thức, trong Phật giáo, điểm quan trọng nhất là ta phải biết trở về với chính mình, chứ không nên cố gắng trở thành một cái gì khác hơn là mình. Đạo Phật dạy cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta và để cho nó hiển lộ ra một cách không ngăn ngại. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức dậy và nhìn thấy sự vật như chúng là.

Trong lời dạy cuối cùng của đức Phật khi Ngài nhập diệt Niết bàn nói với chúng ta như thế này: "Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc và ham muốn, các con hãy chặn đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con. Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú từ sự giác ngộ hay mê lầm. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo".

Ngoài ra tôi cũng chiêm nghiệm thêm tự chính mình đừng lệ thuộc vào một ai, đừng trở thành chim lồng cá chậu theo một ảo tưởng nào để rồi tự mình tạo ra một cái chuồng cũi để tự giam nhốt mình chung thân.
E- Biết làm người tri ân và biết báo đáp ân
Trong kinh Tăng chi, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có chúng sanh biết báo ơn, đền ơn, người này đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn. Cho dù người đó cách chốn này ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần mà chẳng là xa, cũng như gần ta không khác. Vì sao vậy? Tỳ kheo nên biết, vì Ta thường khen ngợi người biết báo ơn đền ơn.” 
Đó không chỉ là đạo lý của con người mà còn là động lực giúp cho mọi hành giả thẳng bước trên con đường tu tập khi biết đền đáp ơn Cha mẹ, Thầy, Tổ.
Lời kết:
Trộm học từ Lục Tổ Huệ Năng : “Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng.  Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được.  Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho.  Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh.”

Và từ đó hạnh nghiệp của chúng sinh sẽ đưa người đến những môi trường sống tương thích; và từ bối cảnh đó, những tâm thái tương ứng sẽ được hình thành và củng cố.

Cho dù thế hệ trẻ ngày nay có muốn vươn lên đến một giai cấp nào đó trong xã hội cũng nên nhớ đến những yếu tố quan trọng mà Đức Phật đã từ bi trao truyền lại trong giáo pháp của Ngài mà kinh sách được các vị cao tăng truyền giảng

Cũng xin ghi lại một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm để những ai muốn có một tư lương cho hành trình ngày sau nên trang bị vậy:
“Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp :
Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma.”
-Kinh Hoa Nghiêm
Kính trân trọng,
Sydney 19/12/2022
Huệ Hương



hoa sen dep (1)

Sinh phong của một người .



Hạnh nghiệp chúng sinh tìm  môi trường thích hợp 

Bối cảnh xã hội, tâm thái hình thành

Biểu trưng tương ưng với hạt giống thiện lành

Và cứ thế xoay vần vạn vạn  thế kỷ !



Đừng tưởng dễ …cơ hội gặp người hiền trí !

Vì quả hiện nay lại là nhân của kiếp sau 

Khi còn tâm đạo, học Phật dồi trau 

Phước điền mầu mở hạt giống… tăng trưởng 

Sinh phong nhân cách không do tưởng tượng 

Được mang tên nhờ lợi ích của  tư lương !


Huệ Hương

  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7674)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3556)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3512)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11231)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3967)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3448)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10812)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6816)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12775)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4348)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]