Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

19/12/202219:27(Xem: 2557)
Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

hoa sen dep (3)

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.


Kính dâng Thầy bài viết sau nhiều tháng chiêm nghiệm học hỏi, hy vọng được Thầy giảo nghiệm cách học pháp của con và cho một lời phê. Kính tri ân Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, Hh




Nếu cuộc đời là một dòng sông, có bao giờ bạn nghĩ :
Hành trình trước mặt sẽ dẫn về đâu?
Hiểu được nghệ thuật tồn tại trong sóng nước bao lâu
Khi từng giai đoạn bị nhấn chìm, trôi dạt (1)
Sẽ vượt qua hay phải bỏ lại đến bến bờ khác ?
Sinh mệnh đời người do Tâm tạo tác
Dù nghiệp an bài vẫn…thay đổi được bản thân
Hãy hành thiện, tích đức, biết tri ân
Yếu tố quan trọng nhất :
Điều gì trao đi…chính là những gì sẽ nhận lại!
Vận mệnh bạn cũng nằm trong chính bàn tay
( thơ Huệ Hương)

————-
(1) Theo kinh Tương ưng
Tham ái là chìm xuống và tà kiến là trôi dạt,
thường kiến là chìm xuống và đoạn kiến là trôi dạt,
lười biếng là chìm xuống và phóng dật là trôi dạt,
lợi dưỡng là chìm xuống và khổ hạnh là trôi dạt,
ác pháp là chìm xuống và thiện pháp là trôi dạt.



Lời đầu:

Từ năm 1996 có lẽ tôi đã bị ảnh hưởng nhiều đến những yếu tố mà Unesco đã đề nghị làm chuẩn cho việc học tập đó là: (1- Học để biết, 2- Học để làm, 3- Học để chung sống, 4- Học để tự khẳng định mình) và vì lẽ đó nên khi tiếp xúc bất cứ giới nào trong Đời, Đạo và trong môi trường hoàn cảnh nào tôi cũng tìm cách khám phá những thông tin xã hội  Gần đây nhất khi được tiếp xúc với  giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai tôi đã tìm hiểu nhiều hơn để thích ứng hơn với thời đại mới vào  bản thân và cuộc sống mình cho những ngày sắp tới hầu “hoà quang nhi bất hổn tục “.

Và tôi đã biết phần đông trong giới trẻ thế hệ thứ hai này đang muốn hoà đồng vào một giai cấp gọi là trung lưu nên đã xả thân làm việc rất nhiều giờ và đã uốn nắn thế hệ thứ ba được đào luyện trong môi trường hoàn cảnh ….có nghĩa là học ở một trường grammar nổi tiếng, học âm nhạc dương cầm, violon thật giỏi, gia nhập các trò chơi thể thao hạng sang như golf, tennis, rowing, ….để sau này khi qua được VCE chúng sẽ đi thẳng vào cái gọi là network rất tự nhiên và dễ dàng khi được phỏng vấn tìm việc làm.

Thế nhưng, những ngày tu dưỡng tại Sydney với không gian tĩnh lặng, chỉ nghe pháp thoại và học kinh Tăng Chi bấy giờ tôi lại chiêm nghiệm về điều dạy của Phật rằng: Bất cứ hành trình sinh mệnh nào của một cá nhân, một con người ( không kế xuất gia, tại gia, có học Phật Pháp hay không học) đều phải tuỳ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng nhất đó là:

1-Sở hữu cái NGHIỆP của mình.
2-Khuynh hướng tâm lý do giáo dục và chí hướng riêng của mình ( biết rõ mình tham muốn điều gì và ghét bỏ điều gì, cũng như biết rõ mình biết cái gì và không biết cái gì cùng với tất cả sự nỗ lực của bản thân, sự trợ lực gián tiếp hay trực tiếp của minh sư, thiện hữu).
3-Hoàn cảnh xã hội môi trường mà mình đã trải qua từ lúc thơ ấu, thiếu niên và trưởng thành trong những điều kiện sinh hoạt bối cảnh tu học nào , sống giữa thời đại nào của một khu phố, làng xã trong một quốc gia nào).
Kính xin thưa với các bạn những lời dạy của Phật đúng với mọi thời đại, mọi thế hệ, mọi giai cấp và có lẽ đúng với nhận xét thật xác đáng của cao tăng nào đó rằng …”điều vi diệu trong Phật pháp nằm ở chỗ, dù Thế Tôn có nói nhiều bao nhiêu cũng nhằm vào một lý, và có nói ít bao nhiêu cũng bao hàm vạn sự”
Chính vì điều nhận xét này tôi đã thu nhận giáo pháp của Đức Phật bằng những chữ rất tóm gọn để rồi mang hẳn vào trong đầu ghi nhớ làm tư lương cho hành trình của mình.
A- Cái nhìn
Theo sự chiêm nghiệm những năm tháng dồi mài miên mật trên kinh sách, tôi tự nhủ rằng nếu mình chưa đủ trình độ để có được “Trong cái Thấy chỉ là cái Thấy” thì hãy tự tập để có được 4 cái nhìn thật phóng khoáng như sau :
-)Nhìn từ dưới thấp hướng lên các bậc cao thượng bên trên để học những điều hay lẽ phải của quý Ngài.
-) Nhìn từ địa vị trên đề nhìn xuống phía dưới đẻ thấy được khả năng của họ mà giúp đỡ, hướng dẫn, hộ trì.
-) Nhìn từ bên ngoài đã đối xử với bản thân ta như thế nào để bao dung và tha thứ cho họ.
-) Nhìn vào bên trong của chính bản thân ta để khuyến khích và tự sách tấn nên làm diều thiện tránh làm điều ác và mỗi ngày thanh lọc nội tâm.
Và quả thật điều này trong các kinh điển đều ghi lại “Đức Phật trọn  đời không  biết buồn là gì vì ngay cả một đệ tử chân  chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không  thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận rõ vạn vật” có thể nói : “Đệ tử của Ngài, ai ai cũng đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại,  an nhiên,  tâm hồn thư thái lạ lùng".
B- Duyên
Đức Phật luôn tùy duyên mà thuyết pháp.
Học được rằng “Vạn pháp tuỳ duyên , tuỳ thời tiến thoái, đúc lúc , đúng chỗ “
Duyên là bất cứ động cơ hay điều kiện nào dẫn đến, đưa tới cái gì đó thì rõ ràng toàn bộ lời Phật chỉ nằm trọn trong chữ Duyên.
Và giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo, cuộc luân hồi của vạn loại chúng sinh là một vòng tròn khép kín, không có chỗ bắt đầu hay kết thúc. Từ đó, bất cứ mắt xích nào trong 12 Duyên Khởi cũng có thể là chỗ bắt đầu. Vô Minh hay Xúc, Thọ, Ái,… đều được cả.
Đọc đâu đấy từ một bài viết của người hiểu Đạo, “toàn bộ hành trình tu chứng của một người cầu giải thoát hay kẻ trầm luân xem chừng cũng gói tròn trong một chữ duyên”
Giới hạnh là duyên cho thiền định, thiền định là duyên cho trí tuệ nội quán. và cuối cùng Trí tuệ này là duyên cho người chứng đắc Niết Bàn.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên tạo sanh sẽ bỏ được Đoạn Kiến.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên mà biến diệt sẽ dứt được Thường Kiến.
Bỏ được hai tà kiến này chính là Chánh Kiến, bước đầu của Bát Thánh Đạo, cái duyên dẫn đến thánh trí giải thoát.
C- Luật Nhân Quả
Phật dạy: “Muốn biết quá khứ hay tương lai của một người chỉ cần nhìn những điều người đó đang nhận hoặc đang làm ở hiện tại là có thể biết được”. Qua quy luật nhân quả, Phật dạy ta biết rằng, vận mệnh là do tự bản thân mỗi người nắm giữ, quyết định chứ không phải do thế lực nào tạo nên. Mình tự gieo nhân thì tự gặt lấy quả, tùy theo thiện ác nhiều ít nên có khác nhau
Từ quan niệm nhân quả của Phật chúng ta có thể thấy, những việc hiện tại chúng ta đang nhận là do “nhân” đã trồng trước đây tạo ra. Nhân muốn hình thành nên quả thì ở giữa phải có duyên tức điều kiện. 
“Nhân” đã tạo ra trong quá khứ thì không thể thay đổi được. Cái có thể thay đổi chính là “duyên”, điều kiện để tạo ra kết quả. Nói cách khác, kiếp trước ít nhiều đều làm điều xấu nhưng kiếp này từ bỏ điều xấu làm việc thiện thì ác duyên sẽ đứt. Như vậy chỉ có chính ta mới có thể thay đổi đổi vận mệnh một cách tích cực và sẽ nhận được phước báo.
D- Luôn Chánh Niệm, Tỉnh thức
Chánh niệm có nghĩa là chú ý theo một đường lối đặc biệt: có mục đích, ở trong giây phút hiện tại và không phán xét. Sự chú ý này sẽ nuôi dưỡng một ý thức rộng lớn, sáng tỏ và biết chấp nhận thực tại. Chánh niệm đánh thức ta dậy để nhận thấy sự thật rằng sự sống của ta chỉ có mặt trong giây phút hiện tại này mà thôi.

Mà chánh niệm lại là một nghệ thuật sống tỉnh thức, trong Phật giáo, điểm quan trọng nhất là ta phải biết trở về với chính mình, chứ không nên cố gắng trở thành một cái gì khác hơn là mình. Đạo Phật dạy cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta và để cho nó hiển lộ ra một cách không ngăn ngại. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức dậy và nhìn thấy sự vật như chúng là.

Trong lời dạy cuối cùng của đức Phật khi Ngài nhập diệt Niết bàn nói với chúng ta như thế này: "Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc và ham muốn, các con hãy chặn đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con. Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú từ sự giác ngộ hay mê lầm. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo".

Ngoài ra tôi cũng chiêm nghiệm thêm tự chính mình đừng lệ thuộc vào một ai, đừng trở thành chim lồng cá chậu theo một ảo tưởng nào để rồi tự mình tạo ra một cái chuồng cũi để tự giam nhốt mình chung thân.
E- Biết làm người tri ân và biết báo đáp ân
Trong kinh Tăng chi, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có chúng sanh biết báo ơn, đền ơn, người này đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn. Cho dù người đó cách chốn này ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần mà chẳng là xa, cũng như gần ta không khác. Vì sao vậy? Tỳ kheo nên biết, vì Ta thường khen ngợi người biết báo ơn đền ơn.” 
Đó không chỉ là đạo lý của con người mà còn là động lực giúp cho mọi hành giả thẳng bước trên con đường tu tập khi biết đền đáp ơn Cha mẹ, Thầy, Tổ.
Lời kết:
Trộm học từ Lục Tổ Huệ Năng : “Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng.  Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được.  Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho.  Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh.”

Và từ đó hạnh nghiệp của chúng sinh sẽ đưa người đến những môi trường sống tương thích; và từ bối cảnh đó, những tâm thái tương ứng sẽ được hình thành và củng cố.

Cho dù thế hệ trẻ ngày nay có muốn vươn lên đến một giai cấp nào đó trong xã hội cũng nên nhớ đến những yếu tố quan trọng mà Đức Phật đã từ bi trao truyền lại trong giáo pháp của Ngài mà kinh sách được các vị cao tăng truyền giảng

Cũng xin ghi lại một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm để những ai muốn có một tư lương cho hành trình ngày sau nên trang bị vậy:
“Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp :
Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma.”
-Kinh Hoa Nghiêm
Kính trân trọng,
Sydney 19/12/2022
Huệ Hương



hoa sen dep (1)

Sinh phong của một người .



Hạnh nghiệp chúng sinh tìm  môi trường thích hợp 

Bối cảnh xã hội, tâm thái hình thành

Biểu trưng tương ưng với hạt giống thiện lành

Và cứ thế xoay vần vạn vạn  thế kỷ !



Đừng tưởng dễ …cơ hội gặp người hiền trí !

Vì quả hiện nay lại là nhân của kiếp sau 

Khi còn tâm đạo, học Phật dồi trau 

Phước điền mầu mở hạt giống… tăng trưởng 

Sinh phong nhân cách không do tưởng tượng 

Được mang tên nhờ lợi ích của  tư lương !


Huệ Hương

  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17385)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 11875)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6327)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3724)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4679)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7786)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4349)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11665)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 8003)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
09/08/2018(Xem: 6322)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]