Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

19/12/202219:27(Xem: 2543)
Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

hoa sen dep (3)

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.


Kính dâng Thầy bài viết sau nhiều tháng chiêm nghiệm học hỏi, hy vọng được Thầy giảo nghiệm cách học pháp của con và cho một lời phê. Kính tri ân Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, Hh




Nếu cuộc đời là một dòng sông, có bao giờ bạn nghĩ :
Hành trình trước mặt sẽ dẫn về đâu?
Hiểu được nghệ thuật tồn tại trong sóng nước bao lâu
Khi từng giai đoạn bị nhấn chìm, trôi dạt (1)
Sẽ vượt qua hay phải bỏ lại đến bến bờ khác ?
Sinh mệnh đời người do Tâm tạo tác
Dù nghiệp an bài vẫn…thay đổi được bản thân
Hãy hành thiện, tích đức, biết tri ân
Yếu tố quan trọng nhất :
Điều gì trao đi…chính là những gì sẽ nhận lại!
Vận mệnh bạn cũng nằm trong chính bàn tay
( thơ Huệ Hương)

————-
(1) Theo kinh Tương ưng
Tham ái là chìm xuống và tà kiến là trôi dạt,
thường kiến là chìm xuống và đoạn kiến là trôi dạt,
lười biếng là chìm xuống và phóng dật là trôi dạt,
lợi dưỡng là chìm xuống và khổ hạnh là trôi dạt,
ác pháp là chìm xuống và thiện pháp là trôi dạt.



Lời đầu:

Từ năm 1996 có lẽ tôi đã bị ảnh hưởng nhiều đến những yếu tố mà Unesco đã đề nghị làm chuẩn cho việc học tập đó là: (1- Học để biết, 2- Học để làm, 3- Học để chung sống, 4- Học để tự khẳng định mình) và vì lẽ đó nên khi tiếp xúc bất cứ giới nào trong Đời, Đạo và trong môi trường hoàn cảnh nào tôi cũng tìm cách khám phá những thông tin xã hội  Gần đây nhất khi được tiếp xúc với  giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai tôi đã tìm hiểu nhiều hơn để thích ứng hơn với thời đại mới vào  bản thân và cuộc sống mình cho những ngày sắp tới hầu “hoà quang nhi bất hổn tục “.

Và tôi đã biết phần đông trong giới trẻ thế hệ thứ hai này đang muốn hoà đồng vào một giai cấp gọi là trung lưu nên đã xả thân làm việc rất nhiều giờ và đã uốn nắn thế hệ thứ ba được đào luyện trong môi trường hoàn cảnh ….có nghĩa là học ở một trường grammar nổi tiếng, học âm nhạc dương cầm, violon thật giỏi, gia nhập các trò chơi thể thao hạng sang như golf, tennis, rowing, ….để sau này khi qua được VCE chúng sẽ đi thẳng vào cái gọi là network rất tự nhiên và dễ dàng khi được phỏng vấn tìm việc làm.

Thế nhưng, những ngày tu dưỡng tại Sydney với không gian tĩnh lặng, chỉ nghe pháp thoại và học kinh Tăng Chi bấy giờ tôi lại chiêm nghiệm về điều dạy của Phật rằng: Bất cứ hành trình sinh mệnh nào của một cá nhân, một con người ( không kế xuất gia, tại gia, có học Phật Pháp hay không học) đều phải tuỳ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng nhất đó là:

1-Sở hữu cái NGHIỆP của mình.
2-Khuynh hướng tâm lý do giáo dục và chí hướng riêng của mình ( biết rõ mình tham muốn điều gì và ghét bỏ điều gì, cũng như biết rõ mình biết cái gì và không biết cái gì cùng với tất cả sự nỗ lực của bản thân, sự trợ lực gián tiếp hay trực tiếp của minh sư, thiện hữu).
3-Hoàn cảnh xã hội môi trường mà mình đã trải qua từ lúc thơ ấu, thiếu niên và trưởng thành trong những điều kiện sinh hoạt bối cảnh tu học nào , sống giữa thời đại nào của một khu phố, làng xã trong một quốc gia nào).
Kính xin thưa với các bạn những lời dạy của Phật đúng với mọi thời đại, mọi thế hệ, mọi giai cấp và có lẽ đúng với nhận xét thật xác đáng của cao tăng nào đó rằng …”điều vi diệu trong Phật pháp nằm ở chỗ, dù Thế Tôn có nói nhiều bao nhiêu cũng nhằm vào một lý, và có nói ít bao nhiêu cũng bao hàm vạn sự”
Chính vì điều nhận xét này tôi đã thu nhận giáo pháp của Đức Phật bằng những chữ rất tóm gọn để rồi mang hẳn vào trong đầu ghi nhớ làm tư lương cho hành trình của mình.
A- Cái nhìn
Theo sự chiêm nghiệm những năm tháng dồi mài miên mật trên kinh sách, tôi tự nhủ rằng nếu mình chưa đủ trình độ để có được “Trong cái Thấy chỉ là cái Thấy” thì hãy tự tập để có được 4 cái nhìn thật phóng khoáng như sau :
-)Nhìn từ dưới thấp hướng lên các bậc cao thượng bên trên để học những điều hay lẽ phải của quý Ngài.
-) Nhìn từ địa vị trên đề nhìn xuống phía dưới đẻ thấy được khả năng của họ mà giúp đỡ, hướng dẫn, hộ trì.
-) Nhìn từ bên ngoài đã đối xử với bản thân ta như thế nào để bao dung và tha thứ cho họ.
-) Nhìn vào bên trong của chính bản thân ta để khuyến khích và tự sách tấn nên làm diều thiện tránh làm điều ác và mỗi ngày thanh lọc nội tâm.
Và quả thật điều này trong các kinh điển đều ghi lại “Đức Phật trọn  đời không  biết buồn là gì vì ngay cả một đệ tử chân  chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không  thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận rõ vạn vật” có thể nói : “Đệ tử của Ngài, ai ai cũng đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại,  an nhiên,  tâm hồn thư thái lạ lùng".
B- Duyên
Đức Phật luôn tùy duyên mà thuyết pháp.
Học được rằng “Vạn pháp tuỳ duyên , tuỳ thời tiến thoái, đúc lúc , đúng chỗ “
Duyên là bất cứ động cơ hay điều kiện nào dẫn đến, đưa tới cái gì đó thì rõ ràng toàn bộ lời Phật chỉ nằm trọn trong chữ Duyên.
Và giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo, cuộc luân hồi của vạn loại chúng sinh là một vòng tròn khép kín, không có chỗ bắt đầu hay kết thúc. Từ đó, bất cứ mắt xích nào trong 12 Duyên Khởi cũng có thể là chỗ bắt đầu. Vô Minh hay Xúc, Thọ, Ái,… đều được cả.
Đọc đâu đấy từ một bài viết của người hiểu Đạo, “toàn bộ hành trình tu chứng của một người cầu giải thoát hay kẻ trầm luân xem chừng cũng gói tròn trong một chữ duyên”
Giới hạnh là duyên cho thiền định, thiền định là duyên cho trí tuệ nội quán. và cuối cùng Trí tuệ này là duyên cho người chứng đắc Niết Bàn.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên tạo sanh sẽ bỏ được Đoạn Kiến.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên mà biến diệt sẽ dứt được Thường Kiến.
Bỏ được hai tà kiến này chính là Chánh Kiến, bước đầu của Bát Thánh Đạo, cái duyên dẫn đến thánh trí giải thoát.
C- Luật Nhân Quả
Phật dạy: “Muốn biết quá khứ hay tương lai của một người chỉ cần nhìn những điều người đó đang nhận hoặc đang làm ở hiện tại là có thể biết được”. Qua quy luật nhân quả, Phật dạy ta biết rằng, vận mệnh là do tự bản thân mỗi người nắm giữ, quyết định chứ không phải do thế lực nào tạo nên. Mình tự gieo nhân thì tự gặt lấy quả, tùy theo thiện ác nhiều ít nên có khác nhau
Từ quan niệm nhân quả của Phật chúng ta có thể thấy, những việc hiện tại chúng ta đang nhận là do “nhân” đã trồng trước đây tạo ra. Nhân muốn hình thành nên quả thì ở giữa phải có duyên tức điều kiện. 
“Nhân” đã tạo ra trong quá khứ thì không thể thay đổi được. Cái có thể thay đổi chính là “duyên”, điều kiện để tạo ra kết quả. Nói cách khác, kiếp trước ít nhiều đều làm điều xấu nhưng kiếp này từ bỏ điều xấu làm việc thiện thì ác duyên sẽ đứt. Như vậy chỉ có chính ta mới có thể thay đổi đổi vận mệnh một cách tích cực và sẽ nhận được phước báo.
D- Luôn Chánh Niệm, Tỉnh thức
Chánh niệm có nghĩa là chú ý theo một đường lối đặc biệt: có mục đích, ở trong giây phút hiện tại và không phán xét. Sự chú ý này sẽ nuôi dưỡng một ý thức rộng lớn, sáng tỏ và biết chấp nhận thực tại. Chánh niệm đánh thức ta dậy để nhận thấy sự thật rằng sự sống của ta chỉ có mặt trong giây phút hiện tại này mà thôi.

Mà chánh niệm lại là một nghệ thuật sống tỉnh thức, trong Phật giáo, điểm quan trọng nhất là ta phải biết trở về với chính mình, chứ không nên cố gắng trở thành một cái gì khác hơn là mình. Đạo Phật dạy cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta và để cho nó hiển lộ ra một cách không ngăn ngại. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức dậy và nhìn thấy sự vật như chúng là.

Trong lời dạy cuối cùng của đức Phật khi Ngài nhập diệt Niết bàn nói với chúng ta như thế này: "Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc và ham muốn, các con hãy chặn đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con. Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú từ sự giác ngộ hay mê lầm. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo".

Ngoài ra tôi cũng chiêm nghiệm thêm tự chính mình đừng lệ thuộc vào một ai, đừng trở thành chim lồng cá chậu theo một ảo tưởng nào để rồi tự mình tạo ra một cái chuồng cũi để tự giam nhốt mình chung thân.
E- Biết làm người tri ân và biết báo đáp ân
Trong kinh Tăng chi, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có chúng sanh biết báo ơn, đền ơn, người này đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn. Cho dù người đó cách chốn này ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần mà chẳng là xa, cũng như gần ta không khác. Vì sao vậy? Tỳ kheo nên biết, vì Ta thường khen ngợi người biết báo ơn đền ơn.” 
Đó không chỉ là đạo lý của con người mà còn là động lực giúp cho mọi hành giả thẳng bước trên con đường tu tập khi biết đền đáp ơn Cha mẹ, Thầy, Tổ.
Lời kết:
Trộm học từ Lục Tổ Huệ Năng : “Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng.  Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được.  Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho.  Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh.”

Và từ đó hạnh nghiệp của chúng sinh sẽ đưa người đến những môi trường sống tương thích; và từ bối cảnh đó, những tâm thái tương ứng sẽ được hình thành và củng cố.

Cho dù thế hệ trẻ ngày nay có muốn vươn lên đến một giai cấp nào đó trong xã hội cũng nên nhớ đến những yếu tố quan trọng mà Đức Phật đã từ bi trao truyền lại trong giáo pháp của Ngài mà kinh sách được các vị cao tăng truyền giảng

Cũng xin ghi lại một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm để những ai muốn có một tư lương cho hành trình ngày sau nên trang bị vậy:
“Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp :
Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma.”
-Kinh Hoa Nghiêm
Kính trân trọng,
Sydney 19/12/2022
Huệ Hương



hoa sen dep (1)

Sinh phong của một người .



Hạnh nghiệp chúng sinh tìm  môi trường thích hợp 

Bối cảnh xã hội, tâm thái hình thành

Biểu trưng tương ưng với hạt giống thiện lành

Và cứ thế xoay vần vạn vạn  thế kỷ !



Đừng tưởng dễ …cơ hội gặp người hiền trí !

Vì quả hiện nay lại là nhân của kiếp sau 

Khi còn tâm đạo, học Phật dồi trau 

Phước điền mầu mở hạt giống… tăng trưởng 

Sinh phong nhân cách không do tưởng tượng 

Được mang tên nhờ lợi ích của  tư lương !


Huệ Hương

  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11242)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8187)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5151)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16903)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3504)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6653)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18301)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13068)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4424)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12581)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]