Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

19/12/202219:27(Xem: 2547)
Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.

hoa sen dep (3)

Tản mạn về Hành Trình sinh mệnh một đời người.


Kính dâng Thầy bài viết sau nhiều tháng chiêm nghiệm học hỏi, hy vọng được Thầy giảo nghiệm cách học pháp của con và cho một lời phê. Kính tri ân Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, Hh




Nếu cuộc đời là một dòng sông, có bao giờ bạn nghĩ :
Hành trình trước mặt sẽ dẫn về đâu?
Hiểu được nghệ thuật tồn tại trong sóng nước bao lâu
Khi từng giai đoạn bị nhấn chìm, trôi dạt (1)
Sẽ vượt qua hay phải bỏ lại đến bến bờ khác ?
Sinh mệnh đời người do Tâm tạo tác
Dù nghiệp an bài vẫn…thay đổi được bản thân
Hãy hành thiện, tích đức, biết tri ân
Yếu tố quan trọng nhất :
Điều gì trao đi…chính là những gì sẽ nhận lại!
Vận mệnh bạn cũng nằm trong chính bàn tay
( thơ Huệ Hương)

————-
(1) Theo kinh Tương ưng
Tham ái là chìm xuống và tà kiến là trôi dạt,
thường kiến là chìm xuống và đoạn kiến là trôi dạt,
lười biếng là chìm xuống và phóng dật là trôi dạt,
lợi dưỡng là chìm xuống và khổ hạnh là trôi dạt,
ác pháp là chìm xuống và thiện pháp là trôi dạt.



Lời đầu:

Từ năm 1996 có lẽ tôi đã bị ảnh hưởng nhiều đến những yếu tố mà Unesco đã đề nghị làm chuẩn cho việc học tập đó là: (1- Học để biết, 2- Học để làm, 3- Học để chung sống, 4- Học để tự khẳng định mình) và vì lẽ đó nên khi tiếp xúc bất cứ giới nào trong Đời, Đạo và trong môi trường hoàn cảnh nào tôi cũng tìm cách khám phá những thông tin xã hội  Gần đây nhất khi được tiếp xúc với  giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai tôi đã tìm hiểu nhiều hơn để thích ứng hơn với thời đại mới vào  bản thân và cuộc sống mình cho những ngày sắp tới hầu “hoà quang nhi bất hổn tục “.

Và tôi đã biết phần đông trong giới trẻ thế hệ thứ hai này đang muốn hoà đồng vào một giai cấp gọi là trung lưu nên đã xả thân làm việc rất nhiều giờ và đã uốn nắn thế hệ thứ ba được đào luyện trong môi trường hoàn cảnh ….có nghĩa là học ở một trường grammar nổi tiếng, học âm nhạc dương cầm, violon thật giỏi, gia nhập các trò chơi thể thao hạng sang như golf, tennis, rowing, ….để sau này khi qua được VCE chúng sẽ đi thẳng vào cái gọi là network rất tự nhiên và dễ dàng khi được phỏng vấn tìm việc làm.

Thế nhưng, những ngày tu dưỡng tại Sydney với không gian tĩnh lặng, chỉ nghe pháp thoại và học kinh Tăng Chi bấy giờ tôi lại chiêm nghiệm về điều dạy của Phật rằng: Bất cứ hành trình sinh mệnh nào của một cá nhân, một con người ( không kế xuất gia, tại gia, có học Phật Pháp hay không học) đều phải tuỳ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng nhất đó là:

1-Sở hữu cái NGHIỆP của mình.
2-Khuynh hướng tâm lý do giáo dục và chí hướng riêng của mình ( biết rõ mình tham muốn điều gì và ghét bỏ điều gì, cũng như biết rõ mình biết cái gì và không biết cái gì cùng với tất cả sự nỗ lực của bản thân, sự trợ lực gián tiếp hay trực tiếp của minh sư, thiện hữu).
3-Hoàn cảnh xã hội môi trường mà mình đã trải qua từ lúc thơ ấu, thiếu niên và trưởng thành trong những điều kiện sinh hoạt bối cảnh tu học nào , sống giữa thời đại nào của một khu phố, làng xã trong một quốc gia nào).
Kính xin thưa với các bạn những lời dạy của Phật đúng với mọi thời đại, mọi thế hệ, mọi giai cấp và có lẽ đúng với nhận xét thật xác đáng của cao tăng nào đó rằng …”điều vi diệu trong Phật pháp nằm ở chỗ, dù Thế Tôn có nói nhiều bao nhiêu cũng nhằm vào một lý, và có nói ít bao nhiêu cũng bao hàm vạn sự”
Chính vì điều nhận xét này tôi đã thu nhận giáo pháp của Đức Phật bằng những chữ rất tóm gọn để rồi mang hẳn vào trong đầu ghi nhớ làm tư lương cho hành trình của mình.
A- Cái nhìn
Theo sự chiêm nghiệm những năm tháng dồi mài miên mật trên kinh sách, tôi tự nhủ rằng nếu mình chưa đủ trình độ để có được “Trong cái Thấy chỉ là cái Thấy” thì hãy tự tập để có được 4 cái nhìn thật phóng khoáng như sau :
-)Nhìn từ dưới thấp hướng lên các bậc cao thượng bên trên để học những điều hay lẽ phải của quý Ngài.
-) Nhìn từ địa vị trên đề nhìn xuống phía dưới đẻ thấy được khả năng của họ mà giúp đỡ, hướng dẫn, hộ trì.
-) Nhìn từ bên ngoài đã đối xử với bản thân ta như thế nào để bao dung và tha thứ cho họ.
-) Nhìn vào bên trong của chính bản thân ta để khuyến khích và tự sách tấn nên làm diều thiện tránh làm điều ác và mỗi ngày thanh lọc nội tâm.
Và quả thật điều này trong các kinh điển đều ghi lại “Đức Phật trọn  đời không  biết buồn là gì vì ngay cả một đệ tử chân  chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không  thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận rõ vạn vật” có thể nói : “Đệ tử của Ngài, ai ai cũng đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại,  an nhiên,  tâm hồn thư thái lạ lùng".
B- Duyên
Đức Phật luôn tùy duyên mà thuyết pháp.
Học được rằng “Vạn pháp tuỳ duyên , tuỳ thời tiến thoái, đúc lúc , đúng chỗ “
Duyên là bất cứ động cơ hay điều kiện nào dẫn đến, đưa tới cái gì đó thì rõ ràng toàn bộ lời Phật chỉ nằm trọn trong chữ Duyên.
Và giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo, cuộc luân hồi của vạn loại chúng sinh là một vòng tròn khép kín, không có chỗ bắt đầu hay kết thúc. Từ đó, bất cứ mắt xích nào trong 12 Duyên Khởi cũng có thể là chỗ bắt đầu. Vô Minh hay Xúc, Thọ, Ái,… đều được cả.
Đọc đâu đấy từ một bài viết của người hiểu Đạo, “toàn bộ hành trình tu chứng của một người cầu giải thoát hay kẻ trầm luân xem chừng cũng gói tròn trong một chữ duyên”
Giới hạnh là duyên cho thiền định, thiền định là duyên cho trí tuệ nội quán. và cuối cùng Trí tuệ này là duyên cho người chứng đắc Niết Bàn.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên tạo sanh sẽ bỏ được Đoạn Kiến.
Hiểu được vạn hữu đều do duyên mà biến diệt sẽ dứt được Thường Kiến.
Bỏ được hai tà kiến này chính là Chánh Kiến, bước đầu của Bát Thánh Đạo, cái duyên dẫn đến thánh trí giải thoát.
C- Luật Nhân Quả
Phật dạy: “Muốn biết quá khứ hay tương lai của một người chỉ cần nhìn những điều người đó đang nhận hoặc đang làm ở hiện tại là có thể biết được”. Qua quy luật nhân quả, Phật dạy ta biết rằng, vận mệnh là do tự bản thân mỗi người nắm giữ, quyết định chứ không phải do thế lực nào tạo nên. Mình tự gieo nhân thì tự gặt lấy quả, tùy theo thiện ác nhiều ít nên có khác nhau
Từ quan niệm nhân quả của Phật chúng ta có thể thấy, những việc hiện tại chúng ta đang nhận là do “nhân” đã trồng trước đây tạo ra. Nhân muốn hình thành nên quả thì ở giữa phải có duyên tức điều kiện. 
“Nhân” đã tạo ra trong quá khứ thì không thể thay đổi được. Cái có thể thay đổi chính là “duyên”, điều kiện để tạo ra kết quả. Nói cách khác, kiếp trước ít nhiều đều làm điều xấu nhưng kiếp này từ bỏ điều xấu làm việc thiện thì ác duyên sẽ đứt. Như vậy chỉ có chính ta mới có thể thay đổi đổi vận mệnh một cách tích cực và sẽ nhận được phước báo.
D- Luôn Chánh Niệm, Tỉnh thức
Chánh niệm có nghĩa là chú ý theo một đường lối đặc biệt: có mục đích, ở trong giây phút hiện tại và không phán xét. Sự chú ý này sẽ nuôi dưỡng một ý thức rộng lớn, sáng tỏ và biết chấp nhận thực tại. Chánh niệm đánh thức ta dậy để nhận thấy sự thật rằng sự sống của ta chỉ có mặt trong giây phút hiện tại này mà thôi.

Mà chánh niệm lại là một nghệ thuật sống tỉnh thức, trong Phật giáo, điểm quan trọng nhất là ta phải biết trở về với chính mình, chứ không nên cố gắng trở thành một cái gì khác hơn là mình. Đạo Phật dạy cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta và để cho nó hiển lộ ra một cách không ngăn ngại. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức dậy và nhìn thấy sự vật như chúng là.

Trong lời dạy cuối cùng của đức Phật khi Ngài nhập diệt Niết bàn nói với chúng ta như thế này: "Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc và ham muốn, các con hãy chặn đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con. Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú từ sự giác ngộ hay mê lầm. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo".

Ngoài ra tôi cũng chiêm nghiệm thêm tự chính mình đừng lệ thuộc vào một ai, đừng trở thành chim lồng cá chậu theo một ảo tưởng nào để rồi tự mình tạo ra một cái chuồng cũi để tự giam nhốt mình chung thân.
E- Biết làm người tri ân và biết báo đáp ân
Trong kinh Tăng chi, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có chúng sanh biết báo ơn, đền ơn, người này đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn. Cho dù người đó cách chốn này ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần mà chẳng là xa, cũng như gần ta không khác. Vì sao vậy? Tỳ kheo nên biết, vì Ta thường khen ngợi người biết báo ơn đền ơn.” 
Đó không chỉ là đạo lý của con người mà còn là động lực giúp cho mọi hành giả thẳng bước trên con đường tu tập khi biết đền đáp ơn Cha mẹ, Thầy, Tổ.
Lời kết:
Trộm học từ Lục Tổ Huệ Năng : “Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng.  Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được.  Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho.  Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh.”

Và từ đó hạnh nghiệp của chúng sinh sẽ đưa người đến những môi trường sống tương thích; và từ bối cảnh đó, những tâm thái tương ứng sẽ được hình thành và củng cố.

Cho dù thế hệ trẻ ngày nay có muốn vươn lên đến một giai cấp nào đó trong xã hội cũng nên nhớ đến những yếu tố quan trọng mà Đức Phật đã từ bi trao truyền lại trong giáo pháp của Ngài mà kinh sách được các vị cao tăng truyền giảng

Cũng xin ghi lại một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm để những ai muốn có một tư lương cho hành trình ngày sau nên trang bị vậy:
“Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp :
Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma.”
-Kinh Hoa Nghiêm
Kính trân trọng,
Sydney 19/12/2022
Huệ Hương



hoa sen dep (1)

Sinh phong của một người .



Hạnh nghiệp chúng sinh tìm  môi trường thích hợp 

Bối cảnh xã hội, tâm thái hình thành

Biểu trưng tương ưng với hạt giống thiện lành

Và cứ thế xoay vần vạn vạn  thế kỷ !



Đừng tưởng dễ …cơ hội gặp người hiền trí !

Vì quả hiện nay lại là nhân của kiếp sau 

Khi còn tâm đạo, học Phật dồi trau 

Phước điền mầu mở hạt giống… tăng trưởng 

Sinh phong nhân cách không do tưởng tượng 

Được mang tên nhờ lợi ích của  tư lương !


Huệ Hương

  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/04/2021(Xem: 10708)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
01/04/2021(Xem: 9744)
Bài chúc Tết của NS Hoài Linh gây xôn xao MXH: Tự làm thơ hơn 7000 chữ, nhắc đủ 63 tỉnh thành với kiến thức sử địa quá uyên thâm! Trong dịp đầu năm mới, đông đảo các nghệ sĩ trong showbiz Việt đã gửi những lời chúc bình an, sức khoẻ đến với người hâm mộ. Thế nhưng ấn tượng và được netizen chia sẻ nhiều nhất chính là bài thơ chúc Tết được đầu tư và vô cùng sáng tạo của NS Hoài Linh. Ngoài tài làm thơ, NS Hoài Linh còn chứng minh có kiến thức lịch sử và địa lý uyên thâm khi chúc Tết theo đặc trưng từng tỉnh thành ở Việt Nam. Từ những thành phố lớn, đến vùng núi xa xôi, loạt danh lam thắng cảnh, lịch sử thành lập hay đặc nét riêng vùng miền đều được NS Hoài Linh đưa vào bài thơ mang tên Chúc Xuân một cách tài tình. Ngay lập tức, màn chúc Tết có tâm nhất Vbiz của NS Hoài Linh được người hâm mộ "thả tim" và chia sẻ rầm rộ trên MXH. Sau hơn 1 giờ đăng tải, bài thơ chúc Tết hơn 7000 chữ và gần 500 câu của NS Hoài Linh đã nhận được 86 nghìn lượt yêu thích, hàng chục nghìn bình lu
22/03/2021(Xem: 6735)
Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít. Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời. Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.
16/02/2021(Xem: 4756)
Kịch hài: Đưa Chồng Tây Về Quê Ăn Tết. Trần Thị Nhật Hưng Một màn. Diễn viên: Cô con gái Việt, cậu rể Tây và mẹ cô gái. Khung cảnh: Phòng khách nhà người mẹ tại Việt Nam *** (Vợ chồng cô con gái kéo va ly bước ra sân khấu.Người mẹ cũng vừa bước ra đối diện nhau). Mẹ (tíu tít): Sa luy...sa luy...(Salü...salü: Chào...chào...) Con rể Tây: Gút tơn tát. Vi kết ét tia. Ít phờ rôi mít tia khên nơn su le rờ nơn (Guten Tag. Wie geht es Dir? Ich freue mich Dir kennenzulernen: Chào mẹ. Mẹ có khỏe không? Rất hân hạnh được quen biết mẹ) Mẹ (trố mắt ngạc nhiên, nhìn con gái): Nó nói gì dzậy? Con gái: Sao má gọi ảnh là...nó, không lịch sự tí nào. Mẹ: Ảnh...nói gì dzậy? Con gái: Chồng con chứ đâu phải chồng má mà má gọi bằng...ảnh.
15/02/2021(Xem: 9557)
Trong vườn hoa thì có nhiều hoa và có muôn màu muôn sắc khác nhau. Vườn hoa lúc nào cũng đượm mùi thanh nhã, thì vườn thơ cũng không khác gì vườn hoa. Tuy nhiên nói về thơ hay định nghĩa về thơ thì rất khó ; do đó, chúng ta nhìn về thơ thì cũng tựa như ta nhìn vị họa sĩ qua cây cọ hay là nghe tiếng đàn qua vị nhạc sĩ đang hòa tấu. Những thập niên trước đây, khi ra hải ngoại, mỗi lần đi hướng dẫn những khóa tu tập, sau giờ giải lao, có những vị Phật tử vui tính xin giúp vui giải lao bằng những lời ca tiếng nhạc hay âm điệu ngâm nga những câu thơ của chư Tôn đức sáng tác, hoặc tự thân họ làm ra để giúp bầu không khí tu tập thêm phần sinh động. . . .
03/02/2021(Xem: 19248)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
01/02/2021(Xem: 6187)
Đối với những dân tộc sống trong nền văn minh lúa nước tại Đông Nam Á, nhất là đất nước và con người Việt Nam, hình ảnh con trâu, thường hay được nói đến, không phải “con trâu là đầu cơ nghiệp” mà đối với người nông dân là con vật gần gũi thân thiết, nên trong ca dao trâu xuất hiện trong bức tranh lao động của gia đình “trên đồng cạn, dưới đồng sâu, chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”, trâu cũng trở thành bạn tâm tình của người nông dân: “trâu ơi ! ta bảo trâu này…” Người nông dân đã đồng cảm với trâu, qua việc cần mẫn lao động hằng ngày, không có lúc nào hưởng được sự thảnh thơi mà phải luôn vất vả nhọc nhằn. Hình ảnh con trâu kéo cày trên ruộng đồng với lúa, mạ xanh tươi, hay đứng nằm gặm nhai cỏ trên bãi cỏ xanh, cùng giầm mình trong vũng ao hồ sình lầy là hình ảnh quen thuộc, gợi lên nhiều cảm xúc thị vị thanh bình tạo cảm hứng cho biết bao thi nhân và họa sĩ.
01/02/2021(Xem: 7060)
Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những… chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi…Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ… thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền t
01/02/2021(Xem: 8398)
Vào năm 1990, một nhà sư trẻ đến thị xã Lagi – Bình Thuận, dừng bước bên con suối Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, mộc mạc, cách xa trung tâm Lagi. Con suối có cái tên hơi lạ, tên nguyên sơ là suối Đá do chảy qua nhiều tảng đá to, sau này khi người Quảng đến định cư, đọc chệch thành “suối Đó”. Vị sư trẻ dựng một thảo am bên cạnh con suối, cao hứng đặt tên thảo am là chùa Đây, tạo thành một cái tên hay hay và lạ mà du khách đến một lần không thể nào quên “suối Đó – chùa Đây”. Sau này, thảo am nhỏ được trùng tu dần thành một ngôi chùa trang nghiêm và tĩnh lặng với cái tên mang lại cho người ta cảm giác an nhiên tự tại khi nhắc đến như hôm nay – chùa Thanh Trang Lan Nhã.
01/02/2021(Xem: 9463)
Ngôi chùa nhỏ với không gian yên tĩnh nằm bên dòng suối Đó giáp ranh giữa xã Tân Phước và phường Tân An, thị xã La Gi có cái tên rất thanh vắng, tịch mịch “Thanh trang lan nhã” . Chùa do một vị Đại đức tuổi trung niên làm trụ trì, nhà sư Thích Tấn Tuệ. Sư Tấn Tuệ tên thật là Đinh Văn Thành (SN 1960), quê ở làng Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông quy y từ lúc còn nhỏ được đào tạo học hành chu đáo, đi lại nhiều nơi nên kiến thức sâu rộng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]