Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Việt Hán đến Ngữ Văn, Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

12/04/202211:59(Xem: 3427)
Từ Việt Hán đến Ngữ Văn, Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

tieng viet-1

Từ VIỆT HÁN đến NGỮ VĂN  
Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

 

 

 

 

Môn học về tiếng mẹ đẻ của một dân tộc là giá trị tiêu biểu về tính nhân văn của con người và đất nước đó. Thử mở chương trình học về ngôn ngữ bản xứ của các nước có gia tài đồ sộ về ngôn ngữ và văn chương sẽ thấy rõ ràng sự nhất quán về danh xưng của môn học tiếng mẹ đẻ từ cấp tiểu học đến đại học của xứ đó: Trung Văn (中文), Anh Văn (English), Pháp Văn (Française)... Việt Văn (Ngữ Văn)! Các danh xưng Trung Văn, Anh Văn, Pháp Văn… đều có lịch sử suốt nhiều trăm năm; chỉ riêng lịch sử Ngữ Văn thì phải tính bằng số chục.

 

Ngữ Văn là gì và việc sử dụng nhóm chữ nầy để gọi môn học tiếng Việt trong nhà trường như hiện nay có đúng hay không?

 

            Trên những trang mạng hành chính Giáo dục Việt Nam có sự xác định về môn học “Ngữ Văn” như sau: Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông có tên là Ngữ văn.”

 

Và Ngữ Văn được định nghĩa:

 

 “ Ngữ Văn là khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.” Mặc dầu nội hàm định nghĩa nầy vừa thiếu chuẩn xác về tính “khoa học”, vừa mơ hồ về tính ứng dụng và thực hành nhưng nó đã nói lên một điều không thể phủ nhận được rằng: Ngữ Văn là một bộ phận của toàn văn.

 

Việc dùng nhóm chữ (mà ngôn ngữ thời thượng trong nước hiện nay gọi là cụm từ) “Ngữ Văn” để thay cho Quốc Văn, Việt Văn hay Văn Học là một quá trình chọn lọc chưa họp lý và thiếu trong sáng cần được xét lại về cả hai mặt danh xưng và ngữ học.

Về mặt ngữ học thì Ngữ () là một danh từ Hán Việt, nếu đứng một mình thì có nghĩa là lời nói hay dòng văn. Nếu ghép với một chữ khác như ngữ pháp, ngữ âm, ngữ cảnh, ngữ học, ngữ vị… thì ngữ sẽ biến tướng thành một chức năng, một sự so sánh, một nguồn phân tích trong lĩnh vực ngôn ngữ. Nếu Ngữ đi với Văn thì sẽ biến thành một một môn học: Ngữ Văn học (語文學). Khi song song, khi kết hợp với các ngành khác như Văn Hiến học (文獻學)Văn Tự học (文字學) thì Ngữ Văn được xem như một loại Bác Ngữ học mà tiếng Anh gọi là Philology. Như thế, về mặt danh xưng, trước sự kiện đem một ngành học của ngôn ngữ ra làm đại diện bao trùm cho cả ngôn ngữ của một dân tộc văn hiến như tiếng Việt để dạy dỗ và đào tạo trong môi trường giáo dục toàn quốc có cả trăm triệu dân thì có hợp lý hợp tình hay chăng?

 

Đã nhiều nghìn năm qua, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Trung Quốc, tiếng Việt… đã có từ dạng sơ khai - phát ra âm thanh đến mức trừu tượng - ghi dấu bằng ký hiệu vẫn không ngừng đổi mới. Có những ngôn ngữ hưng thịnh và vang bóng một thời như tiếng Phạn (Sanskrit) ở châu Á, La-tinh ở châu Âu, Mayan ở châu Mỹ… nay trở thành tử ngữ, vì không còn ai dùng làm phương tiện trong sinh hoạt đại chúng thời nay. Ngược lại, cũng có những sinh ngữ có khuynh hướng thành “thế giới ngữ” như tiếng Anh thời hiện đại. Và cái hệ quả không thể nào tránh khỏi là tiếng nói càng được dùng nhiều chừng nào thì sự biến đổi càng nhiều chừng đó như tiếng Anh hiện nay trên toàn thế giới có tới 160 “kiểu cọ” dùng tiếng Anh khác nhau và ngay trong nước Mỹ cũng đang có 7 lối nói tiếng Anh không giống nhau như Tiếng Anh chính thống, tiếng Anh Bắc Mỹ, tiếng Anh Nam Mỹ, tiếng Anh của người Mỹ gốc Phi Châu…  Có những sự biến âm và biến thể phức hợp hơn như English ở Singapore đang thành “Singlish”!


            Quan điểm cấp tiến trong lĩnh vực ngôn ngữ thời đại toàn cầu hoá ngày nay là nên “xòe rộng bàn tay” để đón nhận những luồng gió mới trước hiện tượng du nhập, tìm kiếm, sáng tạo và phiên âm hoá những từ mới cho ngôn ngữ bản xứ. Tiến trình hội nhập, chắt lọc, đào thải… tự nhiên sẽ làm công việc của một kiểu cách hàn lâm viện ngôn ngữ đại chúng: Hợp lý hợp tình thì tồn tại và phát triển; vô lý bốc đồng thì sẽ bị đào thải và lãng quên.


            Như Mỹ du nhập đồng thời những từ ngữ “pho” (phở), “nuoc mam” (nước mắm), “ao dai” (áo dài), “zerox” (copy bằng máy Zerox), “google” (tìm thông tin trên trang mạng Google)… nhưng từ “zerox” đã chết cùng với máy Zerox vắng bóng trên thị trường sản xuất. Và nếu Phở Việt không ngon hay áo dài Việt truyền thống bị “thiết kế” theo những mẩu mã dị kỳ thì tự nó sẽ bị phủ nhận và danh xưng sẽ bị xóa bỏ theo nguyên tắc sinh tồn tự nhiên trong hệ thống ngôn ngữ nước người.


            Có thể nói một cách công bằng là ngôn ngữ, tiếng nói có riêng dòng sinh mệnh của nó. Dùng đúng thì được tồn tại và phát huy; dùng sai thì bị lụi tàn và phế bỏ.


            Ngôn ngữ Việt Nam đang được sử dụng và phát huy như thế nào?


            Dầu trực tiếp hay gián tiếp, hướng đào tạo và phát triển kỹ năng tiếng Việt theo truyền thống giáo dục xưa nay là thông qua quá trình giảng dạy của đội ngũ Thầy, Cô giáo phụ trách môn học tiếng Việt từ mẫu giáo đến đại học. Nhưng cho đến ngày nay, hệ thống giáo dục và đào tạo tiếng Việt vẫn chưa có một danh xưng thuần Việt, trong sáng và đúng nghĩa với môn học cùng với ngành đào tạo tiếng nói và suối nguồn tinh thần quan trọng nầy của đất nước và dân tộc.

            Số phận môn học tiếng nói Việt Nam Văn Việt Nam thật là… ba chìm bảy nổi. Thời tôi còn đi học và ra đời dạy học môn Văn trong bối cảnh giáo dục VNCH, môn học nầy được gọi là Quốc Văn hay Việt Văn, môn học đứng đầu trong tất cả mọi kỳ thi các cấp. Nhưng khi vào chuyên ngành sư phạm thì trường ĐHSP gọi là Ban Việt Hán (!).

 

            Sau 1975, tôi được tạm ở lại dạy trong nhà trường XHCN chưa tròn hai năm học. Thuở ấy, môn Quốc Văn, Việt Văn biến thành môn Văn hay Văn Học. Và sau bao năm xa quê hương, khi về lại, môn Văn ngày xưa đã biến thành môn “Ngữ Văn” tự bao giờ.

 

            Những năm vẫn còn duyên với bụi phấn trong nhà trường Cao đẳng và Đại học Mỹ, ngoài môn chuyên nghề, tôi cũng có dạy tiếng Việt (mà giáo trình môn học tiếng Việt của nhà trường chỉ ghi có một chữ: Vietnamese). Có mấy lần sinh viên hỏi “môn học Ngữ Văn là môn gì thế” thì thật tình là thầy giáo bị lúng túng. Nếu tôi dịch đúng chức năng là “Philology” (Bác ngữ học) thì thật là khiên cưỡng, phiến nghĩa mà dịch là “Language and Literature” thì chẳng khác gì đem Biển Đông trùm lên làm quả Địa Cầu; đó là chưa nói đến vấn nạn “Ngữ Văn suông” hay Ngữ Văn của nước nào thế?

 

Trên sàn văn luân lưu chữ nghĩa, danh xưng Quốc Văn, Việt Văn, Văn Học, Văn Việt vẫn còn nguyên ý nghĩa sáng giá có khả năng dùng làm tên gọi cho môn học tiếng Việt trong nhà trường mà lý tưởng nhất là chỉ có một nhóm từ gồm hai chữ.

 

Quốc Văn: là một danh xưng trang trọng và tiêu chuẩn nhưng “quốc văn” của xứ nào?

Việt Văn: là một danh xưng vừa bình dân vừa hàn lâm nhưng cấu trúc theo tiếng Trung Hoa (Danh từ đứng trước tĩnh từ).

Văn Học: là một danh xưng chưa bao gồm được tiếng nói Việt Nam.

Văn Việt: là một danh xưng tương đối trong sáng và thuần Việt nhất.

Nên chăng chọn nhóm chữ VĂN VIỆT để gọi tên cho môn học tiếng Việt trong nhà trường?


            Ngày 30- 04- 2022 tới đây, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế sẽ tổ chức lễ Kỷ niệm 65 năm thành lập Ban Việt Hán - Khoa Ngữ văn, chúng tôi được nhà trường gởi giấy mời tham dự với tư cách là cựu sinh viên ban Việt Hán. Bởi đã xa quê 40 năm và xa trường 52 năm lại đang gặp mùa Đại Dịch chưa tàn, tôi không thể trực tiếp về tham dự nên mượn những dòng nầy để gởi về “hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” như một lời phát biểu và cảm tạ khiêm tốn; đồng thời với thiện tâm tham gia ý kiến xây dựng: Không bao giờ đã muộn để sửa sai điều chưa đúng và cũng chẳng bao giờ còn sớm để tiếp thu điều chưa thông.

 

Đã nhiều năm qua, tôi không phải là người “ngoại đạo” với những bước chuyển mình của tiếng Việt. Khi được nhà giáo Phạm Toàn mời tham gia nhóm Cánh Buồm để soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho thế hệ trẻ, viết cho Talawas của Phạm Thị Hoài và tham gia đóng góp bài vở với Văn Việt và nhiều trang mạng xã hội tiếng Việt khác, tôi thật ngưỡng mộ tài năng, viễn kiến và quan trọng nhất là tấm lòng thiết tha với tiếng Việt của thế hệ đàn anh, đàn chị và đàn em trong cũng như ngoài nước. Bởi vậy, chỉ mong rằng ý kiến được nêu ra trong bài nầy chẳng nhằm mục đích phê phán hay “nhặt sỏi” mà tất cả đều mang tính chất tâm sự, chia sẻ và xây dựng.

 

            Xin cảm tạ lời mời của Ban Tổ Chức kỷ niệm 65 năm Ban Việt Hán và anh chị em cựu sinh viên ở xa không đến được sẽ xin gởi vòng hoa chúc mừng.



 Sacramento, 11- 4- 202

Trần Kiêm Đoàn



***

facebook

youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24672)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9500)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11219)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3646)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5436)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3286)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10874)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3774)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15257)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3549)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]