Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Việt Hán đến Ngữ Văn, Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

12/04/202211:59(Xem: 3383)
Từ Việt Hán đến Ngữ Văn, Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

tieng viet-1

Từ VIỆT HÁN đến NGỮ VĂN  
Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt

 

 

 

 

Môn học về tiếng mẹ đẻ của một dân tộc là giá trị tiêu biểu về tính nhân văn của con người và đất nước đó. Thử mở chương trình học về ngôn ngữ bản xứ của các nước có gia tài đồ sộ về ngôn ngữ và văn chương sẽ thấy rõ ràng sự nhất quán về danh xưng của môn học tiếng mẹ đẻ từ cấp tiểu học đến đại học của xứ đó: Trung Văn (中文), Anh Văn (English), Pháp Văn (Française)... Việt Văn (Ngữ Văn)! Các danh xưng Trung Văn, Anh Văn, Pháp Văn… đều có lịch sử suốt nhiều trăm năm; chỉ riêng lịch sử Ngữ Văn thì phải tính bằng số chục.

 

Ngữ Văn là gì và việc sử dụng nhóm chữ nầy để gọi môn học tiếng Việt trong nhà trường như hiện nay có đúng hay không?

 

            Trên những trang mạng hành chính Giáo dục Việt Nam có sự xác định về môn học “Ngữ Văn” như sau: Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông có tên là Ngữ văn.”

 

Và Ngữ Văn được định nghĩa:

 

 “ Ngữ Văn là khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.” Mặc dầu nội hàm định nghĩa nầy vừa thiếu chuẩn xác về tính “khoa học”, vừa mơ hồ về tính ứng dụng và thực hành nhưng nó đã nói lên một điều không thể phủ nhận được rằng: Ngữ Văn là một bộ phận của toàn văn.

 

Việc dùng nhóm chữ (mà ngôn ngữ thời thượng trong nước hiện nay gọi là cụm từ) “Ngữ Văn” để thay cho Quốc Văn, Việt Văn hay Văn Học là một quá trình chọn lọc chưa họp lý và thiếu trong sáng cần được xét lại về cả hai mặt danh xưng và ngữ học.

Về mặt ngữ học thì Ngữ () là một danh từ Hán Việt, nếu đứng một mình thì có nghĩa là lời nói hay dòng văn. Nếu ghép với một chữ khác như ngữ pháp, ngữ âm, ngữ cảnh, ngữ học, ngữ vị… thì ngữ sẽ biến tướng thành một chức năng, một sự so sánh, một nguồn phân tích trong lĩnh vực ngôn ngữ. Nếu Ngữ đi với Văn thì sẽ biến thành một một môn học: Ngữ Văn học (語文學). Khi song song, khi kết hợp với các ngành khác như Văn Hiến học (文獻學)Văn Tự học (文字學) thì Ngữ Văn được xem như một loại Bác Ngữ học mà tiếng Anh gọi là Philology. Như thế, về mặt danh xưng, trước sự kiện đem một ngành học của ngôn ngữ ra làm đại diện bao trùm cho cả ngôn ngữ của một dân tộc văn hiến như tiếng Việt để dạy dỗ và đào tạo trong môi trường giáo dục toàn quốc có cả trăm triệu dân thì có hợp lý hợp tình hay chăng?

 

Đã nhiều nghìn năm qua, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Trung Quốc, tiếng Việt… đã có từ dạng sơ khai - phát ra âm thanh đến mức trừu tượng - ghi dấu bằng ký hiệu vẫn không ngừng đổi mới. Có những ngôn ngữ hưng thịnh và vang bóng một thời như tiếng Phạn (Sanskrit) ở châu Á, La-tinh ở châu Âu, Mayan ở châu Mỹ… nay trở thành tử ngữ, vì không còn ai dùng làm phương tiện trong sinh hoạt đại chúng thời nay. Ngược lại, cũng có những sinh ngữ có khuynh hướng thành “thế giới ngữ” như tiếng Anh thời hiện đại. Và cái hệ quả không thể nào tránh khỏi là tiếng nói càng được dùng nhiều chừng nào thì sự biến đổi càng nhiều chừng đó như tiếng Anh hiện nay trên toàn thế giới có tới 160 “kiểu cọ” dùng tiếng Anh khác nhau và ngay trong nước Mỹ cũng đang có 7 lối nói tiếng Anh không giống nhau như Tiếng Anh chính thống, tiếng Anh Bắc Mỹ, tiếng Anh Nam Mỹ, tiếng Anh của người Mỹ gốc Phi Châu…  Có những sự biến âm và biến thể phức hợp hơn như English ở Singapore đang thành “Singlish”!


            Quan điểm cấp tiến trong lĩnh vực ngôn ngữ thời đại toàn cầu hoá ngày nay là nên “xòe rộng bàn tay” để đón nhận những luồng gió mới trước hiện tượng du nhập, tìm kiếm, sáng tạo và phiên âm hoá những từ mới cho ngôn ngữ bản xứ. Tiến trình hội nhập, chắt lọc, đào thải… tự nhiên sẽ làm công việc của một kiểu cách hàn lâm viện ngôn ngữ đại chúng: Hợp lý hợp tình thì tồn tại và phát triển; vô lý bốc đồng thì sẽ bị đào thải và lãng quên.


            Như Mỹ du nhập đồng thời những từ ngữ “pho” (phở), “nuoc mam” (nước mắm), “ao dai” (áo dài), “zerox” (copy bằng máy Zerox), “google” (tìm thông tin trên trang mạng Google)… nhưng từ “zerox” đã chết cùng với máy Zerox vắng bóng trên thị trường sản xuất. Và nếu Phở Việt không ngon hay áo dài Việt truyền thống bị “thiết kế” theo những mẩu mã dị kỳ thì tự nó sẽ bị phủ nhận và danh xưng sẽ bị xóa bỏ theo nguyên tắc sinh tồn tự nhiên trong hệ thống ngôn ngữ nước người.


            Có thể nói một cách công bằng là ngôn ngữ, tiếng nói có riêng dòng sinh mệnh của nó. Dùng đúng thì được tồn tại và phát huy; dùng sai thì bị lụi tàn và phế bỏ.


            Ngôn ngữ Việt Nam đang được sử dụng và phát huy như thế nào?


            Dầu trực tiếp hay gián tiếp, hướng đào tạo và phát triển kỹ năng tiếng Việt theo truyền thống giáo dục xưa nay là thông qua quá trình giảng dạy của đội ngũ Thầy, Cô giáo phụ trách môn học tiếng Việt từ mẫu giáo đến đại học. Nhưng cho đến ngày nay, hệ thống giáo dục và đào tạo tiếng Việt vẫn chưa có một danh xưng thuần Việt, trong sáng và đúng nghĩa với môn học cùng với ngành đào tạo tiếng nói và suối nguồn tinh thần quan trọng nầy của đất nước và dân tộc.

            Số phận môn học tiếng nói Việt Nam Văn Việt Nam thật là… ba chìm bảy nổi. Thời tôi còn đi học và ra đời dạy học môn Văn trong bối cảnh giáo dục VNCH, môn học nầy được gọi là Quốc Văn hay Việt Văn, môn học đứng đầu trong tất cả mọi kỳ thi các cấp. Nhưng khi vào chuyên ngành sư phạm thì trường ĐHSP gọi là Ban Việt Hán (!).

 

            Sau 1975, tôi được tạm ở lại dạy trong nhà trường XHCN chưa tròn hai năm học. Thuở ấy, môn Quốc Văn, Việt Văn biến thành môn Văn hay Văn Học. Và sau bao năm xa quê hương, khi về lại, môn Văn ngày xưa đã biến thành môn “Ngữ Văn” tự bao giờ.

 

            Những năm vẫn còn duyên với bụi phấn trong nhà trường Cao đẳng và Đại học Mỹ, ngoài môn chuyên nghề, tôi cũng có dạy tiếng Việt (mà giáo trình môn học tiếng Việt của nhà trường chỉ ghi có một chữ: Vietnamese). Có mấy lần sinh viên hỏi “môn học Ngữ Văn là môn gì thế” thì thật tình là thầy giáo bị lúng túng. Nếu tôi dịch đúng chức năng là “Philology” (Bác ngữ học) thì thật là khiên cưỡng, phiến nghĩa mà dịch là “Language and Literature” thì chẳng khác gì đem Biển Đông trùm lên làm quả Địa Cầu; đó là chưa nói đến vấn nạn “Ngữ Văn suông” hay Ngữ Văn của nước nào thế?

 

Trên sàn văn luân lưu chữ nghĩa, danh xưng Quốc Văn, Việt Văn, Văn Học, Văn Việt vẫn còn nguyên ý nghĩa sáng giá có khả năng dùng làm tên gọi cho môn học tiếng Việt trong nhà trường mà lý tưởng nhất là chỉ có một nhóm từ gồm hai chữ.

 

Quốc Văn: là một danh xưng trang trọng và tiêu chuẩn nhưng “quốc văn” của xứ nào?

Việt Văn: là một danh xưng vừa bình dân vừa hàn lâm nhưng cấu trúc theo tiếng Trung Hoa (Danh từ đứng trước tĩnh từ).

Văn Học: là một danh xưng chưa bao gồm được tiếng nói Việt Nam.

Văn Việt: là một danh xưng tương đối trong sáng và thuần Việt nhất.

Nên chăng chọn nhóm chữ VĂN VIỆT để gọi tên cho môn học tiếng Việt trong nhà trường?


            Ngày 30- 04- 2022 tới đây, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế sẽ tổ chức lễ Kỷ niệm 65 năm thành lập Ban Việt Hán - Khoa Ngữ văn, chúng tôi được nhà trường gởi giấy mời tham dự với tư cách là cựu sinh viên ban Việt Hán. Bởi đã xa quê 40 năm và xa trường 52 năm lại đang gặp mùa Đại Dịch chưa tàn, tôi không thể trực tiếp về tham dự nên mượn những dòng nầy để gởi về “hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” như một lời phát biểu và cảm tạ khiêm tốn; đồng thời với thiện tâm tham gia ý kiến xây dựng: Không bao giờ đã muộn để sửa sai điều chưa đúng và cũng chẳng bao giờ còn sớm để tiếp thu điều chưa thông.

 

Đã nhiều năm qua, tôi không phải là người “ngoại đạo” với những bước chuyển mình của tiếng Việt. Khi được nhà giáo Phạm Toàn mời tham gia nhóm Cánh Buồm để soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho thế hệ trẻ, viết cho Talawas của Phạm Thị Hoài và tham gia đóng góp bài vở với Văn Việt và nhiều trang mạng xã hội tiếng Việt khác, tôi thật ngưỡng mộ tài năng, viễn kiến và quan trọng nhất là tấm lòng thiết tha với tiếng Việt của thế hệ đàn anh, đàn chị và đàn em trong cũng như ngoài nước. Bởi vậy, chỉ mong rằng ý kiến được nêu ra trong bài nầy chẳng nhằm mục đích phê phán hay “nhặt sỏi” mà tất cả đều mang tính chất tâm sự, chia sẻ và xây dựng.

 

            Xin cảm tạ lời mời của Ban Tổ Chức kỷ niệm 65 năm Ban Việt Hán và anh chị em cựu sinh viên ở xa không đến được sẽ xin gởi vòng hoa chúc mừng.



 Sacramento, 11- 4- 202

Trần Kiêm Đoàn



***

facebook

youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4395)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3441)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4156)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11105)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11073)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3212)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5207)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3527)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3616)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3385)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]