Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ

08/11/202104:20(Xem: 10850)
Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ

Hien Nhu But_Ha Long But Si

Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ

            Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học.

            Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.

Tổng Quát:


1) Hiền Như Bụt: Trong tiểu luận này tác giả nói lý do tại sao lại có chữ “Bụt”. Buddha người Việt Giao Chỉ gọi nôm na là Ông Bụt. Mãi sau theo Tàu, thời Minh thuộc (1407-1428) mới gọi là Phật vì người Tàu phiên âm Buddha là Phật Đà. Ông Bụt đi cạnh ông Tiên đi vào đời sống tâm linh của người dân từ những đầu thế kỷ Dương Lịch đã trở thành một triết lý, một tôn giáo dân tộc. Ông Trời hay Tạo Hóa hay Thượng Đế thì cao xa quá còn Ông Bụt gần hơn, thân mật, hiền từ hơn. Triết gia Đức Schopenhauer khi được hỏi là các tôn giáo triết lý Tây Phương có thể thay thế được Đạo Phật ở Á Đông từ Thế Kỷ Thứ 19 đã trả lời, “Không có đạo nào có thể thay thế  Đạo Phật ở Đông Phương được vì làm như thế chẳng khác gì bắn một viên đạn lên vách núi cao.”


2) Văn Hóa Hữu Lễ và Mẫu Người Hiền Như Bụt: Qua cách xưng hô của người Việt Nam, Văn Hóa Hữu Lễ bao hàm nghĩa đồng bào. Lễ liền với nhạc là trật tự tiết tấu hài hòa vũ trụ phổ vào trật tự xã hội. Dân chủ Tây Phương từ gốc duy lý đều coi nhẹ tình cảm gia tộc dẫn tới xã hội cá mè một lứa. Trong ngôn ngữ Việt, chữ “Hiền” được dùng nhiều nhất để chỉ định một người tốt như: Mẹ hiền, vợ hiền, cha hiền, anh hiền, chị hiền, vua hiền, tôi hiền (hiền thần), hiền như Bụt và ở hiền gặp lành.


3) Đạo Bụt Sáng Nghĩa: Trong Khóa Hư Lục, nhà vua hiền triết Trần Nhân Tông đã tóm lược con đường tu học như sau:

Lễ Phật giả, kính Phật chi đức.

Niệm Phật giả, cảm Phật chi ân.

Trì giới giả, hành Phật chi hạnh.

Khán kinh giả, minh Phật chi lý.

Tọa thiền giả, đạt Phật chi cảnh.

Tham thiền giả, hợp Phật chi tâm.

Thuyết pháp giả, mãn Phật chi nguyện.


4) Chết đi về đâu? Tác giả tóm gọn vào một câu, “Dựa trên mức độ tu tập và nghiệp nặng, nghiệp nhẹ, mỗi người có thể đi vào các cõi: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, A Tu La, Người, Trời gọi là Lục Đạo.


5) Nghiệp: Đó là hành động lành-dữ của chúng ta trong kiếp trước. Thế nhưng chúng ta có thể tu tập để chuyển nghiệp. Ta có tự do hành động, ta trồng cây nào thì ăn quả đó.


6) Cái Gì Luân Hồi?: Tác giả đã dùng một thí dụ rất sống động để nói về luân hồi. “Như một ngọn đèn (hay ngọn nến) cháy từ canh này sang canh khác. Tuy khác nhau, biến dịch mỗi canh nhưng ánh sáng liên tục phát ra. Cũng vậy, không có một linh hồn bất biến trong con người mà

chỉ có tâm thức diễn tiến liên tục. Còn dục vọng thì còn luân hồi kiếp này kiếp khác. Còn cái để cháy để đốt thì ngọn lửa còn cháy. Còn luyến ái thì vẫn còn mồi cho ngọn lửa cháy liên tục.


7) Chân Không khác Hư Vô: Vào Thế Kỷ IXX, các triết gia Tây Phương lúc đó chưa hiểu Phật pháp đều cho rằng Phật Giáo theo chủ nghĩa hư vô (nihility). Thế nhưng Hư Vô và Không của Phật Giáo khác hẳn nhau. Hư vô là không có gì hết. Còn tánh không là thể tánh của muôn loài, do duyên khởi mà có hình tướng. Chính vì thế mà trong Không đã Có và thể tánh của Có chính là Không.

8) Nhân Chủ và Thần Chủ: Theo tác giả, truyền thống Đông Phương không có đạo giáo nào đưa ra kinh sách bằng “thần khải” như các tôn giáo phát xuất từ thần quyền Trung Đông gồm Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo. Đạo giáo Đông Phương nghiêng về triết lý (từ trí tuệ mà đi lên)…từ đó không để một ông thần ngồi trên đầu mình mà xây dựng một xã hội Nhân Chủ, con người tự làm chủ vận mệnh của mình, tự do, nhân bản và khai phóng.


9) Quốc Độ Bồ Tát: Theo tác giả vì Đức Phật nói về quốc độ của nhiều vị Phật như Cực Lạc của Phật A Di Đà, Đế Thích với 33 tầng trời…cho nên Phật Giáo là hữu thần nhưng không độc thần như Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Truyền thống văn hóa tôn giáo xứ nào cũng vậy. Nó là một tổng hợp sáng tạo cũ mới, xa gần, nội ngoại. Vấn đề là có tổng hợp (dung hợp) được không. Tổng hợp được thì với thời gian ngàn năm sẽ thành truyền thống, không được sẽ thành ngoại lai. Ngoại lai thì khó tồn tại bên cạnh tổng thể. Phật Giáo dung hợp được tập tục thờ cúng tổ tiên, Nho Giáo lẫn Đạo Giáo đã có sẳn trong lòng người dân Việt Nam.


10) Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi: Đó là lời di giáo của Phật trước khi nhập niết bàn. Nhìn dung mạo khác phàm của Phật có người hỏi ngài là người hay thần linh? Đức Phật nói rằng ta không phải là người mà cũng không phải là thần linh mà ta là Bụt. Đạo pháp của bậc đại giác ngộ đó không dựa vào thần linh, không cần tới thế lực, xảo thuật, không cần tới vũ lực gươm giáo vẫn chinh phục được nhân thế kể cả chúng sinh cõi trời và thần linh cõi khác.


11) Chiều Kích Vũ Trụ: Có sự dung thông giữa Phật-Nho-Lão ở khoảng dưới, khoảng giữa và khoảng cao. Nhưng tới mức độ tột cao thì Đạo Phật vượt lên như một nỗ lực siêu việt.


12) Diệu Âm và Diệu Hương: Điểm đặc sắc của Đạo Phật là dùng nhiều phương tiện để giáo hóa, hoằng pháp trong đó có Diệu Âm và Diệu Hương. Điển hình về Diệu Âm có Quán Thế Âm Bồ Tát nghe tiếng kêu than mà tới cứu khổ. Còn Hương Tích Phật - giáo chủ quốc độ Chúng Hương, dùng mùi thơm kỳ diệu để giáo hóa chúng sinh. Mùi thơm của sen cũng có tác dụng làm chúng ta thanh tịnh để đi vào “bầu trời cảnh Bụt”.


13) Tu Bao Lâu Thì Đạt Đạo?: Tác giả đưa ra câu trả lời qua câu chuyện ngụ ngôn rất vui: Một tu sĩ trẻ trên đường đi tới Hy Mã Lạp Sơn, đi qua làng, dừng lại hỏi cụ bà bán nước bên đường, “Cụ cho tôi hỏi từ đây đi bao lâu nữa thì tới chân núi?” Bà cụ không trả lời. Gạn hỏi thêm hai lần nữa bà cụ cũng làm ngơ. Vị tu sĩ nghĩ bà cụ tai điếc, đành tiếp tục lên đường. Mới đi được một quãng bỗng nghe tiếng bà cụ réo gọi, “Bẩy ngày thì tới.” Vị tu sĩ ngạc nhiên quay qua hỏi, “Sao con hỏi cụ ba lần cụ không trả lời. Nay mới đi lại nghe cụ gọi?” Cụ bà trả lời, “Già này phải xem thầy đi nhanh hay đi chậm, có quyết tâm không thì mới trả lời được.”

I. Phật Pháp Trị Liệu: Trong 11 trang của chương này tác giả cho biết rất nhiều bác sĩ tâm thần của Tây Phương đã dùng Phật pháp như trị liệu pháp để chữa căn bệnh lan tràn ở Phương Tây đó là các bệnh; Thần kinh tâm trí (neurosis và psychosis) cả triệu người, lo âu (anxiety disorders) 12 triệu người ở nước Mỹ, bệnh điên (schizophrenia, phân ý) 3 triệu người điên khùng rồ dại. Cả thế giới có khoảng 1%-2% tức vài trăm triệu người điên! Tờ New York Times nói rằng chỉ cần chữa phân nửa số bệnh nhân tâm thần ở Mỹ thôi cũng phải tốn kém khoảng 75 tỷ Mỹ Kim. Carl Jung - một bác sĩ Thụy Sĩ nổi tiếng về trị liệu bệnh tâm thần đã nói rằng, “Nhiệm vụ của tôi là chữa bệnh khổ tâm não vì thế tôi phải làm quen với lối nhìn và phương pháp của bậc vạn thế sư biểu. Là một bác sĩ tôi xác nhận những giảng dạy của nhà Phật đã giúp tôi và kích thích tôi hết sức lớn lao. Nếu vậy thì cũng chỉ là noi theo con đường đã vạch ra hơn hai ngàn năm trong dòng tư tưởng của nhân loại.” Vì sống trong lòng Âu Châu Thiên Chúa Giáo, BS Carl Jung đã phải biện minh, “Nếu lòng tin Thiên Chúa không chữa được tâm bệnh thì có lấy phương pháp trị liệu từ Phật pháp cũng không có gì là lạ.”

            Trong chương này tác giả bàn thêm về Khẩu Nghiệp rất nặng của người Việt Nam qua lối chửi, dè bỉu, chê bai, ví von, khinh bạc người khác, đè người khác qua sự chửi bới thô tục, ác độc…mà nguyên do chỉ vì xã hội bất an, thiếu ăn và thiếu giáo dục. Thậm chí trong sách vở, thi ca cũng đầy rẫy những tiếng chửi, ngôn ngữ thô tục, ví von hiểu theo hai nghĩa bị cấm đoán ở các quốc gia khác… nhưng lại được ưa chuộng và kể đi kể lại, truyền tụng tại Việt Nam.

            Trong chương này tác giả còn nói thêm về Thiền Định, Thiền Quán là pháp môn tu tập chứ không phải chỉ tụng kinh, cầu nguyện. Rồi tác giả nói về lợi lạc của pháp môn Tịnh Khẩu qua lời Phật khuyên bảo ngài Mục Kiền Liên, “Thầy nên yên lặng như bậc Thánh, chớ sinh buông lung, nên tịnh tâm, không để bất cứ điều gì làm chượng ngại.”

II. Đạo Bụt và Khoa Học:

            Trong chương này, tác giả trình bày tỉ mỉ hai tiểu luận Vạn Pháp Dung Thông và Vật Lý Lượng Tử đi cùng với Diệu Lý Hoa Nghiêm của nhà Phật.

            Trong thế giới của Hoa Nghiệm thì “Tam thiên đại thiên thế giới thu trên đầu hạt cải” và “Tất cả chỉ là một và một là tất cả”. Với Einstein, “Sự tương đối dạy ta tính dung thông giữa những hình sắc dị biệt của cùng một thực tướng.” Còn Stephen Hawking muốn thống nhất quang lực quantrum với trọng lực trong Lý Thuyết Bao Gồm Tất Cả (A Theory of Everything). Còn Max Plank, Niels Bohr và Heisenberg- cha đẻ của Cơ Học Lượng Tử, đầu Thế Kỷ XX nói rằng: Lượng tử vừa là hạt vừa là sóng (particle and wave) năng lượng như vậy không liên tục, bất định, không thể một lúc biết được vị trí và xung động của hạt (position and momentum of particle). Trong khi đó Duy Thức Học của Phật Giáo và trong Kinh A Di Đà, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm thì “hằng mà chuyển” là quy luật của vạn pháp, vừa thường hằng, vừa biến hóa, vừa là hạt vừa là sóng. Vạn pháp thay đổi trong từng sát-na.

            Thế mới hay Đức Phật do Thiên Nhãn và Tuệ Nhãn đã nhìn thấu rõ bản thể của vũ trụ mà hơn 20 thế kỷ sau các khoa học gia mới tìm ra.


III. Bóng Bụt Trong Thơ Văn Việt Nam và Quốc Tế:

1)Trong cổ thi vùng Trung Đông (Thế Kỷ XII-XVI)

            Những thi hào Ba Tư như Omar Khayyam, Hafiz, Rumi…đều theo tông phái  Sufi là tông phái cởi mở của Hồi Giáo và chất chứa nhiều tư tưởng dung hợp với Phật Giáo, nếu không muốn nói là thoát thai từ Phật Giáo. Vì khá nhiều cho nên tôi chỉ có thể trích dẫn được một bài:

Cần chi phải dạo vườn hoa.

Bản tâm cây lá trong ta mọc đầy.

Cánh sen an trụ tọa đài.

Vạn xuân tuyệt mỹ búp tay vẹn toàn.

2) Thơ Thiền Xứ Anh Đào:

            Có quá nhiều như: Thiền Sư Ryokan, Basho, Shinkichi Takahashi, Dogen. Tôi chỉ xin trích dẫn một hai bài thơ:

Nói năng bàn chuyện ích gì?

Khi lòng chỉ muốn quên đi sự đời.

Tôi mang bình bát xin ăn.

Trùng trùng cúc nở,

Mênh mang núi rừng.

Hạt sương đầu cỏ lạnh lùng.

Phải chăng nước mắt côn trùng đêm qua? (Ryokan1758-1831)

 

Thế gian ảo ảnh hơi sương.

Hơi sương ấy thế mà thường khổ đau. (Buson 1715-1783)

3) Bút pháp phá chấp của Bồ Tùng Linh Trong Liêu Trai Chí Dị:

            Liêu Trai Chí Dị là “Chuyện thật lạ viết ở một căn buồng hiu hắt” của Bồ Tùng Linh (1640-1715) - một văn sĩ nghèo lận đận đời Nhà Thanh. Sách đã được 30 quốc gia dịch sang tiếng của họ, kể cả Nga, Tiệp Khắc. Tại Việt Nam, Liêu Trai Chí Dị được cụ Đào Trinh Nhất dịch sang Việt Ngữ năm 1900. Theo tác giả Lưu Văn Vịnh, “Đặc tính sáng tạo chính là tài năng mở rộng cõi thế gian tới vô biên, phá tung biên cương giữa các cõi, các quốc độ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ma, trời, người, tiên, Bụt…giải thoát tâm tưởng khỏi màn vô minh hẹp hòi biên kiến. Sức hấp dẫn của tuyệt bút Tây Du Ký và Liêu Trai Chí Dị là ở chỗ đó. Nó như chìa khóa thần đưa độc giả vào thăm chùng chùng thế giới mới lạ dị kỳ, mở toang 8,4000 cánh cửa ngục tù. Càng vào sâu càng thấy cuộc sống dài ra, rộng ra, sâu thêm, cao thêm…”

4) Cung Đàn Bạc Mệnh Trong Thung Lũng Ma

            Theo sử liệu thì cuộc đời của Cụ Nguyễn Du là một ca khúc đoạn trường. “Năm 10 tuổi cha chết. Năm 13 tuổi mẹ chết. Năm 21 tuổi anh cả Nguyễn Khản chết. Năm 26 tuổi anh thứ là Nguyễn Quýnh bị quân Tây Sơn giết. Ngoài 30 tuổi vợ đầu chết.” Có lẽ chính nỗi bi thương này mà Nguyễn Du đã phổ cuộc đời mình vào hai nhân vật Đạm Tiên và Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Theo tác giả, “Nhà đạo diễn Nguyễn Du đã đặt chính đời ông vào nhân vật Kiều “chữ tài liền với chữ tai một vần” là câu dành cho đời ông chứ không phải dành cho một kỹ nữ. Ông sống trong cơn lốc tam phân thiên hạ: Lê-Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ông sống trong nghèo nàn, bốn vợ mười sáu con, trong bất mãn, “Hàng thần lơ láo phận mình ra sao”. Ông ra làm quan cho nhà Nguyễn với tâm sự của một nhân sĩ Bắc Hà từng phò Lê và phục Lê như Phạm Thái. “Thế nhưng cuối cùng Nguyễn Du đã “tâm thức hoàn lương an lạc, tìm ra Phật pháp vốn dĩ là một phương pháp tâm lý trị liệu (psychotherapy):

Khắp trong tứ hải quần chu.

Não phiền trút sạch, oán thù rửa xong.

…Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao. (Văn Tế Thập Loại Chúng  Sinh)

Và:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh.

…Tài chi vô tự thị chân kinh.

Kim Cương Kinh đọc ngàn lần.

Mới hay không chữ mới gần chân kinh.

            Cũng trong chương này tác giả còn nói về Phạm Thái nổi danh Chiêu Lỳ say sưa với lý tưởng phục Lê đã đến Chùa Tiêu Sơn khoác áo thiền sư che dấu hoạt động và Cung Oán Ngâm Khúc để cho thấy tư tưởng Thiền, tư tưởng Phật đã thấm vào thi ca Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử.

            Cũng trong chương này tôi thật cảm khái với những dòng tác giả viết khi thăm lại quê hương: “Và tôi đã trở về Thăng Long sau 39 năm. Mới năm nào chớm thu, bắt chước người lớn, mắt ứa lệ qua Cầu Long Biên. Hôm nay một ngày tàn thu trở lại mắt đã khô như sa mạc và lòng bình thản nhìn tuồng ảo hóa như một cơn bụi lốc của mê tâm. Những trang kinh Kim Cương, Pháp Hoa …quả có tác dụng giải thoát của nó. Tôi lần bước bên Hồ Gươm lối đi học năm xưa, lấy tay sờ lên mấy viên gạch cổ miếu chỗ vua chúa từng ngồi câu cá và là chỗ bán lạc rang nổi tiếng của ông già Tàu thời 1950. Bên kia Vườn Hoa Chí Linh từng chiếc lá vàng rơi lác đác trong cơn mưa phùn.” Và tác giả cũng đã đi thăm Chùa Hương để “tìm loài hoa ba nghìn năm mới xuất hiện một lần”. “ Vào một buổi sớm tinh sương, ăn lót lòng bằng một nắm cốm gói lá sen thanh tịnh, tôi đi vào Chùa Hương, qua những con đương chất đống rơm rạ và những cánh đồng cày sâu quốc bẫm. Trời lại lất phất mưa như bụi hoa linh diệu trải đầy không gian- một không gian thân thuộc, êm ấm như vòng tay người mẹ ôm lấy đứa con thơ – đứa con hư đốn ngỗ nghịch- đứa con ngoan ngoãn hiền lành, đứa cười đứa khóc.”


IV.Văn Hóa Tam Giáo
:

                Có bốn vị thánh bất tử trong lòng dân tộc Việt Nam đó là: Thần Núi Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Công Chúa Liễu Hạnh bắt nguồn từ thời Hùng Vương, đó là tín ngưỡng bình dân, là Thần Đạo thờ thần sông, thần núi, anh hùng và các nhân vật lạ kỳ. Theo tác giả, tuyển chọn nhân tài ra giúp nước là từ Đạo Nho. Ổn định nề nếp xã hội, gia đình, làng nước cũng là Đạo Nho. Nhưng phong tục, cốt tủy nghìn năm là Đạo Phật. Phật vượt lên trên Khổng-Lão biến thành tâm linh và tâm thức Việt. Ba nền tảng đạo đức và tôn giáo đó kết hợp hài hòa trong lòng dân tộc qua cấu trúc của làng quê với Đình Làng, Miếu Đền và Chùa. Tác giả đã dẫn chứng nguồn ca dao trong lòng người dân như:

Lên chùa lạy Phật Thích Ca.

Lạy ông Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.

Bước ra kết nghĩa cùng nàng.

Túi anh có nhẫn cho nàng đeo tay.

Rồi:

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ.

Xem Cầu Thê Húc xem Chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Bút Tháp chưa mòn.

Hỏi ai xây dựng nên non nước này?


V. Phương Đông Trước Những Luồng Gió Tôn Giáo Mới:

            Sau khi lược qua những tranh chấp tôn giáo, cải đạo ráo riết ở các nước có truyền thống Phật Giáo như Nam Hàn, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam tác giả nhận định: “Tôn giáo là cốt tủy của văn hóa, là mạch máu của chủng tộc là não bộ của quốc gia. Một nước thiếu thuần nhất về chủng tộc mà có chung tôn giáo thì vẫn gắn bó keo sơn như các nước Hồi Giáo, Ấn Độ, các nước Âu Mỹ với Thiên Chúa Giáo, Nhật Bản với Thần Giáo và các Thiền Phái.” Và tác giả cũng có cái nhìn thực tế về một số tôn giáo: “Cho nên hoạt động tôn giáo trên thế gian phần nhiều là sinh hoạt thế tục, che phủ “hình nhi hạ” bằng hào quang “hình nhi thượng”  thần thánh mà thôi.” (Tức nói thần nói thánh nhưng thực chất là quyền lực và quyền lợi kinh  tế, chính trị.)


V. Chuỗi Ngọc Kinh Bụt
:

            Trong chương cuối này tác giả trích một số lời dạy của Phật trong Kinh Pháp Cú, Viên Giác, Kim Cương, Kinh Trung Bộ, Tiểu Bộ Kinh, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Ấn, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Kinh Pháp Hoa, Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Trường A Hàm.


Tạm Kết Luận:

            Trong Lời Bạt tác giả nói rằng, “Là người học Phật, sách này chỉ là vòng ngoài của tri kiến Phật, là những bước đầu còn rất xa trí tuệ cao siêu của bậc đại trí, đại giác.”

             Và trong chia xẻ riêng tư, tác giả nói rằng trong Đạo Nho có Nho Sĩ. Trong Đạo Lão có Đạo Sĩ thì trong Đạo Phật có Bụt Sĩ tức là người học Phật và làm theo Phật. Bụt Sĩ không phải là người xuất gia mà là các thiện tri thức sống đời thường nhưng am hiểu Phật, kính trọng Phật và nỗ lực làm theo những gì mà Phật dạy.

            Trong  444 trang tác giả bàn luận về nhiều đề tài kể cả khoa học, y học, tâm lý học, sử Việt và thi ca. Trong nỗ lực trình bày giáo lý vĩ đại và cao siêu của Phật, điều tác giả muốn gửi gấm là:  Học Phật, theo Phật không phải để trở thành ông Thần, ông Thánh như Đạt Ma Tổ Sư nói với Lương Vũ Đế “Quách nhiên vô thánh” tức trống rỗng chẳng có thánh thần gì hết….mà để trở thành một người hiền. Là mẹ thì phải là “mẹ hiền”. Là con thì phải là “Dâu hiền rể thảo”. Là bạn thì là “bạn hiền”. Là người thì phải là “hiền nhân quân tử”. Nếu là trí thức thì phải là “hiền triết”. Làm quan giúp nước phải là “hiền thần”. Còn nếu tu hành đắc quả thì “hiền như Bụt”. Nếu làm được như vậy thì thế giới này trở thành Cực Lạc Tại Thế mà chẳng cần nhọc công tìm kiếm thiên đường ở đâu xa. Lục Tổ Huện Năng nói rằng “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Tâm Tịnh Độ là tâm hiền. Trong “hiền” có thanh tịnh, trong “dữ” có bợn nhơ.

            Có thể nói sách “khế hợp” với mọi trình độ, từ dân giả bình thường tới đại trí thức. Đó là điều khó nhưng cũng là sự thành công của tác giả. Xin chân thành giới thiệu.


 Đào Văn Bình

(California ngày7/11/2021)


Hien Nhu But_Ha Long But Si

Kính mời vào đọc sách này

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 3974)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4657)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6344)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87263)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137327)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4021)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3776)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24464)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11502)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6636)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]