Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

146. Kinh Giáo Giới Nandaka

19/05/202011:38(Xem: 10317)
146. Kinh Giáo Giới Nandaka

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


146. Kinh GIÁO GIỚI NANDAKA

( Nandakovàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ  (1)

          An trú tại Xá-Vệ (2) thành này

              Sa-Vát-Thí (2) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá (3) hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (3)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

       Tức Cấp-Cô-Độc, thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà Thái-tử

          Để cúng dường Điều Ngự Phật Đà

              Cùng với Tỷ-Kheo Tăng-Già

    _______________________________

 

 (1) : Hai trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu ) do người đời tôn xưng

         Đức Phật : Thế Tôn ( Bhagavà ) và Thiện Thệ ( Sugato ).

 (2) : Thành Xá Vệ tức Savatthi (Thất-La-Phiệt) một trung tâm văn 

     hóa, thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độ đương thời .   

(3) : Jetavanavihàra : Kỳ Viên  hay  Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do Trưởng  

giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật là Sudatta – Tu-Đạt ) mua lại từ  khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà (Jeta ) gần Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng cho Đức Phật .      Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đã được Phật thuyết ra .

Vì Trưởng giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của  Thái Tử  Kỳ Đà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự (chùa trải vàng ). Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vì đạo của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng chúng ,  nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anàthapindikàràma

–  Kỳ Thọ Cấp-Cô-Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc, cây Kỳ Đà ). 


 

       Ngày ngày Giáo Pháp tịnh hòa xiển dương.

 

          Như lệ thường, đến thời giáo giới

          Của Chư Tăng đối với Chúng Ni.

              Ma-Ha Pa-Chá-Pa-Ti  (1)

       Tức Ni Trưởng Gô-Ta-Mi – ngày rằm

          Cùng với khoảng năm trăm Ni-giới

          Đồng đi tới trú xứ Thế Tôn

              Tất cả đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên đứng cạnh Thế Tôn, thưa là :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Ngài hãy giáo giới 

          Cho Tỷ Kheo Ni-giới hiện nay.

              Thỉnh Ngài thuyết pháp, giảng bày

       Cho Ni-giới chúng con đây phụng hành ”.

 

          Lúc bấy giờ, đã thành thông lệ

          Các Trưởng Lão cao đệ, hay là

              Các Thượng Tọa – thay phiên mà

       Giáo giới Ni Chúng giới hòa đồng tu.

          Vị Phích-Khu tên Nan-Đa-Ká  (2)

           Ý Tôn-giả này không muốn đi

               Giáo giới Chúng Tỷ Kheo Ni.

 

       Thế Tôn cho gọi tức thì A-Nan  

          Hỏi rằng : “ Này A-Nan ! Đã tới

          Phiên của ai giáo giới hôm nay

              Cho Chúng Tỷ-Kheo-Ni này ”.

 

 – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng ra ngày hôm nay

          Đến phiên ngài Nan-Đa-Ká ấy

          Nhưng vị đấy lại không muốn đi

    ____________________________

 

(1) : Đức Bà Mahà Pajapati Gotami, sau khi xuất gia lãnh đạo

       Chúng Tỷ Kheo Ni.          (2) : Tôn-giả Nandaka.


 

              Giáo giới Chúng Tỷ-Kheo-Ni ”.

 

       Thế Tôn liền bảo thông tri tức thời

          Để chuyển lời Ngài gọi Tôn-giả

          Nan-Đa-Ká. Vị ấy đến ngay.

              Thế Tôn bảo Tôn-giả này :

 

 – “ Này Nan-Đa-Ká ! Đến ngay đạo tràng

          Để giáo giới đến hàng Ni Chúng

          Hãy giảng dạy Ni Chúng, thuyết ra

              Pháp cho Ni-giới thuận hòa ”.

 

 – “ Thưa vâng, bạch đức Phật Đà ! Con đi ”.

          Nan-Đa-Ká tức thì vâng lệnh.

          Bình minh đến, mang bát đắp y

              Đi vào thành Sa-Vát-Thi

       Tuần tự khất thực. Sau khi trì bình

          Ngài thọ thực. Một mình sau đó

          Trở về mà không có ai là

              Cùng đi, trực chỉ để qua  

       Vương Tự – Ra-Chá-Ka-Ra-Ma này.  (1)

          Ni Chúng tại nơi đây vừa thấy

          Tôn-giả ấy đi đến từ xa

              Liền sửa soạn chỗ ngồi, và

       Chuẩn bị nước rửa chân mà sắp ra.

          Tôn-giả Nan-Đa-Ka an tọa

          Chỗ ngồi đã soạn sẵn, rửa chân.

              Chúng Tỷ-Kheo-Ni nghiêm cần

       Đảnh lễ Tôn-giả, ngồi gần một bên.

 

          Vị Tôn-giả liền lên tiếng bảo :

    – “ Chư Hiền-tỷ ! Buổi giáo giới này

    ___________________________

 

   (1) : Vương Tự - Rajakàràma.

 

 

              Sẽ có luận thuyết thẳng ngay        

       Bằng những câu hỏi. Những ai biết, thì

          Hãy trả lời tức thì : ‘Tôi biết’,

          Còn những ai không biết, đáp ngay :

             ‘Tôi không biết’. Nếu có ai

       Ngờ vực, nghi hoặc ở đây, phải cần

          Nên hỏi rằng : ‘Thưa ngài, như vậy

          Sự việc ấy là như thế nào ?

              Ý nghĩa việc ấy ra sao ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Cho đến vào hiện nay  

          Chúng con đây rất là hoan hỷ

          Và thỏa mãn với vị giảng-sư

              Là Nan-Đa-Ká nghiêm từ

       Cho chúng con được hỏi Sư những điều

          Mà phần nhiều chúng con chưa rõ ”.

 

    – “ Chư Hiền-tỷ ! Đã có hiểu tường 

              Mắt là thường hay vô thường ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Là vô thường mắt ni ”.

 

    – “ Phàm cái gì vô thường là lạc

          Hay nói khác là khổ ở đây ? ”.

 

       – “ Thưa Tôn-giả ! Là khổ đầy ”.

 

 – “ Cái vô thường, khổ, đổi thay tức thời,

          Bị biến hoại. Vậy thời khả dĩ

          Có hợp lý khi nghĩ ngư vầy :

             ‘Của tôi’, ‘là tôi’ cái này,

      ‘Cái này là tự ngã rày của tôi’ ? ”.

 

    – “ Điều này thời không phải như vậy ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Nghĩ lại các phần


 

              Về tai, mũi, lưỡi, ý. thân,

       Là vô thường hay mọi phần thường đây ? ”.

 

    – “ Những điều này là vô thường tất ”.

 

    – “ Vô thường thật là khổ hay vui ? ”.

 

        – “ Thưa ngài ! Là khổ, không vui ”.

 

 – “ Cái vô thường, khổ, chẳng vui, biến hoài,

          Có hợp lý nếu ai suy nghĩ :

         ‘Cái này là đích thị của tôi’,

             Hay là ‘cái này là tôi’,

      ‘Nó là tự ngã của tôi’ – nghĩ vầy ? ”.

 

    – “ Không phải vậy, thưa ngài Tôn-giả !

          Sao vậy ? Thưa Tôn-giả ! Trước đây

              Chúng con đã khéo thấy ngay,

       Thấy như chơn với trí đầy chánh chân :

          Là vô thường sáu phần nội xứ ”.

 

    – “ Các vị Nữ Hiền-giả ! Lành thay !  

              Đó chính phải là như vầy.

       Như-chơn thấy với trí đầy chánh chân

          Của bản thân vị Thánh đệ tử.

          Các Hiền-tỷ ! Đã tự hiểu ngay

              Sắc thường hay vô thường vầy ?

       Thinh, hương, vị, xúc thường hay vô thường ?

          Pháp là thường hay vô thường vậy ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Các điều ấy vô thường ”.

 

        – “ Cái gì gọi là vô thường

       Là khổ hay lạc, hiểu tường ra sao ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Đáp mau là khổ ”.

 

    – “ Cái gì vô thường, khổ, đổi thay


 

              Chịu sự biến hoại như vầy

       Có hợp lý khi quán ngay, nghĩ là :

         ‘Cái này là của tôi, ‘Tôi đó’,

         ‘Cái này có tự ngã của tôi’ ? ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Là không rồi !

       Vì sao ? Trước, chúng con thời đinh ninh

          Với cái nhìn như-chơn, chánh trí :

         ‘Sáu ngoại xứ này chỉ vô thường ”.

 

        – “ Lành thay ! Các vị hiểu tường, 

       Chính là như vậy, nhìn thường như-chân

          Với chánh trí Thánh nhân đệ tử.

          Các Hiền-tỷ ! Hãy thử nghĩ sao

              Nhãn thức là thường hay sao ?

       Hay vô thường vậy ? Hiểu mau cho tường ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Là vô thường nhãn thức ”.

 

    – “ Nếu vô thường, khổ thực hay vui ? ”. 

 

       – “ Tôn-giả ! Là khổ, chẳng vui ”.  

 

 – “ Nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức vui hay sầu ?

          Cùng ý thức vui mau hay khổ ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Đều khổ, vô thường ”.

 

        – “ Cái gì mà khổ, vô thường

       Chịu sự biến hoại, tang thương phong trần,

          Hợp lý chăng khi quán tất tật :

         ‘Cái này thật của tôi’, ‘Chính tôi’,

             ‘Nó là tự ngã của tôi’ ? ”.

 

 – “ Thưa không. Vì quá khứ thời, chúng con

          Đã khéo thấy như-chơn, chánh trí :

         ‘Sáu thức thân này chỉ vô thường ”. 

 

         – “ Lành thay ! Các vị hiểu tường


 

       Chính là như vậy, nhìn thường như-chân

          Với chánh trí Thánh nhân đệ tử.

          Này các Nữ Hiền-giả ! Ví như

              Ngọn đèn dầu đốt cháy từ

       Dầu, bấc, ngọn lửa. Thực hư thế nào

          Nếu nói là mặc dầu như vậy

          Ánh sáng ấy thường trú, thưòng còn

              Trong khi hiểu biết như-chơn

       Dầu, bấc, ngọn lửa thuộc cơn vô thường,

          Chịu biến hoại. Hiểu thường như vậy

          Lời nói ấy có chân chánh không ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Điều đó là không !

       Vì sao ? Nguyên, vật liệu trong đèn dầu

          Từ ngọn lửa, bấc, dầu… mọi thứ

          Đều vô thường, chịu sự đổi thay,

              Còn nói gì ánh sáng này,

       Cũng chịu biến hoại, đổi thay, vô thường ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Hiểu tường, đúng vậy

          Nếu ai đấy phát biểu như vầy :

             ‘Vô thường sáu ngoại giới này,

       Do duyên sáu ngoại giới này, nên tôi

          Có cảm thọ, lạc, rồi khổ thọ,

          Bất khổ bất lạc thọ như vầy

              Các cảm thọ ấy còn hoài,

       Thường hằng, thường trú, không rày đổi thay !’

          Các Hiền-tỷ ! Người này nói vậy

          Lời nói ấy có chân chánh không ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Điều đó là không ! 

       Vì sao vậy ? Do duyên trong cái này

          Cảm thọ như thế này, cùng với

          Như thế này mà khởi lên ngay.

              Do diệt các duyên thế này,

       Các cảm thọ như thế này, cho nên

          Như thế này cũng liền biến diệt ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Quả thiệt lành thay !

              Chính phải là đúng như vầy !

       Với chánh trí tuệ nhìn rày như-chân

          Của các vị Thánh nhân đệ tử.

          Này các Nữ Hiền-giả ! Ví vầy :

              Có cây to lớn, thẳng ngay

       Cành lá, thân, rễ, lõi cây… đều là

          Chịu sự vô thường và biến hoại,

          Cả bóng cây cũng lại vô thường.

              Nếu một người nọ nói cương :

      ‘Thân, rễ, cành, lõi… vô thường cả đây,

          Nhưng bóng mát của cây còn mãi,

          Thường còn, thường trú lại thường hằng,

              Không chịu biến hoại mọi phần

       Lời ấy có phải chánh chân không nào ? ”.

 

    – “ Thưa ngài, không. Vì sao nói vậy ?

          Thân cây ấy cao lớn, thẳng ngay 

              Thân, rễ, cành lá, lõi cây…

       Đều vô thường cả, chịu rày biến thiên,

          Còn nói gì đến riêng bóng mát

          Cũng vô thường, chịu các đổi thay ”.

 

         – “ Các Hiền-tỷ ! Đúng như vầy !  

       Nếu có ai đó nói ngay một đường :

         ‘Là vô thường cả sáu nội xứ,

          Do duyên sáu ngoại xứ ở đây

              Tôi cảm thọ lạc & khổ, hay    

       Bất khổ bất lạc thọ ngay như vầy.

          Cảm thọ này thường còn, thường trú,

          Thường hằng, không chịu sự đổi thay’.

              Nếu người ấy nói như vầy

       Lời ấy là chân chánh hay thế nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Tào lao, không đúng !

          Vì sao vậy ? Vì chúng ở đây

              Do duyên cái này, cái này,

       Và cảm thọ như thế này, như đây

          Khởi lên ngay. Do diệt duyên đó

          Các cảm thọ thế này, thế này

              Cũng sẽ bị biến diệt ngay ”. 

 

 – “ Này các Hiền-tỷ ! Lành thay ! Đúng vầy !

          Chính phải là như vầy, đại để

          Cái nhìn chánh trí tuệ, như chân

              Của Thánh đệ tử nghiêm cần.

 

       Ví như một đồ tể nhân giết bò

          Thật thiện xảo, hay do đệ tử

          Sau khi tự giết chết con bò

              Với con dao sắc bén, to

       Người ấy mổ cắt thịt bò thật thông,

          Không hư hại phần trong thịt ấy,

          Không hư hại phần da bên ngoài.

              Rồi cũng với con dao này

       Cắt đứt, cắt đoạn mọi dây thịt cần

          Và dây gân, dây khớp xương cả.

          Sau khi đã cắt tiệt, đứt ra

              Người đồ tể đó lột da,

       Lại bao trùm cả với da bò này.

          Rồi người ấy nói vầy : ‘Bò đó

          Nay đã có dính liền với da

              Như trước khi đã xảy ra’.

       Này các Hiền-tỷ ! Nói ra như vầy

          Lời nói này có phải chân chánh ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Phải nói mạnh là không ”.

              Vì sao vậy ? Phải hiểu thông

       Con bò bị giết, mổ lòng chia ra

          Mà lấy da bao trùm thịt ấy

          Rồi nói đấy là con bò nguyên,

              Lời ấy quả thật sai liền ”.

 

 – “ Các Hiền-tỷ ! Có căn duyên dụ này

          Là để nêu rõ bày ý nghĩa

          Ở đây, có ý nghĩa như vầy :

              Phần thịt trong đồng nghĩa ngay

       Với sáu nội xứ. Da này giống như

          Sáu ngoại xứ. Này chư Hiền-tỷ !

          Dây thịt, gân, dây chỉ khớp xương

              Đồng nghĩa dục hỷ, tham lường.

       Con dao sắc bén dùng thường ở đây

          Đồng nghĩa ngay với Thánh trí tuệ

          Thánh trí tuệ cắt tiệt, đứt ra

              Phiền não, nội kiết sử, và

       Các nội triền phược trải qua mọi thì.

 

          Các vị ! Bảy giác chi thu thập  

          Do tu tập, làm sung mãn ngay

              Về cả bảy giác chi này.

       Tỷ Kheo với sự đoạn ngay tức thì

          Các lậu hoặc, chứng tri tự tại

          Tự mình, trong hiện tại với hàng

              Thượng trí, chứng đạt trú an         

       Vô lậu tâm giải thoát, đang hướng vào

          Tuệ giải thoát. Thế nào là bảy ?

          Các vị ! Tỷ Kheo ấy hành trì

              Tu tập về ‘niệm giác chi’,

       Ly tham y chỉ, viễn ly nương vào

          Nương đoạn diệt, hướng vào từ bỏ,

          Tu tập có ‘trạch pháp giác chi’,

              Tu tập ‘tinh tấn giác chi’,

       Tu tập về ‘hỷ giác chi’, sẵn sàng

          Tu ‘khinh an giác chi’, ‘định’, ‘xả’,

          Nương tựa cả ly tham, viễn ly,

              Y chỉ đoạn diệt tức thì,

       Hướng đến từ bỏ. Giác chi bảy điều 

          Tu tập nhiều, làm cho sung mãn

          Tỷ Kheo với sự đoạn tận ni

              Tất cả lậu hoặc, sau khi

       Ngay trong hiện tại, chứng tri tự mình

          Với thượng trí, hành trình chứng đạt

          Vô lậu tâm giải thoát trú an

              Cùng tuệ giải thoát minh quang ”.  

 

       Sau khi giáo giới đến hàng Chúng Ni

          Nan-Đa-Ka là vì Tôn-giả

          Liền bảo cả Tỷ Kheo Chúng Ni :

 

        – “ Các Hiền-tỷ ! Hãy về đi !

       Thuận hòa giải tán sau khi nghe rồi ”.

 

          Các Tỷ Kheo Ni nơi giáo giới

          Hoan hỷ với buổi giảng tại đây,

              Tín thọ lời Tôn-giả này

       Đứng dậy đảnh lễ, tâm rày niệm ân,

          Hữu nhiễu, thân hướng về Tôn-giả,

          Rồi tất cả đi đến Thế Tôn       

              Sau khi đảnh lễ hết lòng

       Đứng qua bên cạnh. Thế Tôn bảo là :

 

    – “ Này Ni Chúng ! Hãy ra đi cả,

          Giờ đã đến, Tinh Xá hãy về ”.

 

              Các Tỷ Kheo Ni liền về

       Sau khi đảnh lễ trước bề Thế Tôn.

          Đức Thế Tôn sau đó liền gọi

          Chư Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Hãy nghe, các Tỷ Kheo này !

       Ví như ngày Bố-tát đầy trăng trong

          Mười bốn, quần chúng không nghi hoặc

          Không nghi ngờ rằng mặt trăng đây

              Không tròn hay là tròn đầy,

       Vì khi ấy mặt trăng đây chưa tròn.

          Cũng vậy, Ni Chúng còn chưa thỏa

          Với lời Nan-Đa-Ká thuyết minh

              Dẫu vẫn hoan hỷ và tin ”.

 

       Rồi Thế Tôn bảo một mình Tỷ Kheo : 

 

    – “ Nan-Đa-Ká ! Duyên theo việc ấy 

          Vào ngày mai, ông hãy nên đi  

              Giáo giới các Tỷ Kheo Ni

       Với bài giáo giới đoạn nghi, tinh cần ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Xin vâng lời dạy ”.  

 

          Tôn-giả ấy vào sáng hôm sau

              Đắp y mang bát, đi vào

       Thành Sa-Vát-Thí, trước sau trì bình.

          Ngọ thực xong, một mình đi tới

          Để giáo giới Ni Chúng nơi là  

              Vương Tự – Rá-Chá-Ra-Ma

       Chúng Ni các vị liền ra đón chào

          Thỉnh ngài vào ngồi chỗ đã soạn,

          Chúng Ni đảnh lễ, đoạn ngồi vào

              Hai bên Tôn-giả trước sau

       Yên lặng thính pháp. Mở đầu nghiêm trang

          Tôn-giả Nan-Đa-Ka liền bảo :

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Buổi giáo giới này

              Sẽ có luận thuyết thẳng ngay        

       Bằng những câu hỏi. Những ai biết, thì

          Hãy trả lời tức thì : ‘Tôi biết’,

          Còn những ai không biết, đáp ngay :

             ‘Tôi không biết’. Nếu có ai

       Ngờ vực, nghi hoặc ở đây, phải cần

          Nên hỏi rằng : ‘Thưa ngài, như vậy

          Sự việc ấy là như thế nào ?

              Ý nghĩa việc ấy ra sao ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Cho đến vào hiện nay  

          Chúng con đây rất là hoan hỷ

          Và thỏa mãn với vị giảng-sư

              Là Nan-Đa-Ká nghiêm từ

       Cho chúng con được hỏi Sư những điều

          Mà phần nhiều chúng con chưa rõ ”. 

 

          Tiếp sau đó, Tôn-giả ân cần

              Nêu những câu hỏi từng phần

       Như sự giáo giới ở lần trước đây.

          Các Tỷ Kheo Ni này lần lượt

          Trả lời ngài sau trước rõ ràng.

              Cuối cùng Tôn-giả nói sang

      ‘Bảy giác chi’ giúp các hàng xuất gia

          Do tu tập thật là viên mãn

          Với sự đoạn tận lậu-hoặc này,

              Tự mình đã chứng tri ngay

       Trong hiện tại, thượng trí đầy minh quang

          Với thượng trí, trú an chứng đạt

          Cùng với tuệ giải thoát tròn đầy.

 

              Chính trong buổi giáo giới này

       Như thể trùng tụng đủ đầy pháp chân

          Và Ni Chúng tinh cần suy gẫm,

          Nên nhuần thấm nghĩa lý siêu minh,

              Hoan hỷ tín thọ phụng hành

       Sau buổi giáo giới vốn dành Chúng Ni.

 

          Rồi sau đó thời vì Tôn-giả 

          Liền bảo cả Chúng Tỷ Kheo Ni :

 

        – “ Các Hiền-tỷ ! Hãy về đi !

       Thuận hòa giải tán sau khi nghe rồi ”.

 

          Ni Chúng này từ nơi giáo giới

          Cùng đi tới trú xứ Phật Đà,

              Sau khi đảnh lễ, đứng qua

       Một bên Điều Ngự. Phật Đà nói ra :

 

    – “ Này Ni Chúng ! Hãy ra đi cả ! 

          Giờ đã đến, Tinh Xá hãy về ”.

 

              Các Tỷ Kheo Ni liền về

       Sau khi đảnh lễ trước bề Thế Tôn.

          Đức Thế Tôn sau đó liền gọi

          Chư Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Hãy nghe, các Tỷ Kheo này !

       Ví như ngày Bố-tát đầy trăng trong

          Ngày rằm, quần chúng không nghi hoặc

          Không nghi ngờ rằng mặt trăng đây

              Không tròn hay là tròn đầy,

       Vì ngày rằm mặt trăng đây thật tròn.

          Nay Ni Chúng hoàn toàn thỏa mãn

          Với lời giảng của Nan-Đa-Ka

              Trong năm trăm người kể ra

       Tỷ-Kheo-Ni ấy trải qua một chiều

          Tất cả đều đạo quả đạt chứng,

          Người thấp nhất cũng chứng Thất Lai  (1)

              Không còn đọa lạc lâu dài

       Vô Dư sẽ đạt kiếp nay, hoặc vào

          Một hay bảy kiếp sau giải thoát

          Đạt Chánh Đẳng Chánh Giác minh quang ”.

 

              Thế Tôn giảng giải rõ ràng

       Chúng Tăng tín thọ lời vàng, hân hoan ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 146 :  GIÁO GIỚI NANDAKA  –  NANDAKOVÀDA  Sutta  )  

 

 

 

 

 

 

   ____________________________ 

 

(1) : Đạo quả Thinh Văn Tu-Đà-Hoàn  ( Sotàpatti ) còn gọi là

       Dự-Lưu quả hay Thất Lai quả, vì chỉ còn luân hồi sinh tử

      7 lần nữa sẽ đạt được Vô Dư Y Niết Bàn.  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/10/2020(Xem: 2711)
Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên; lên rồi rút, rút rồi lại lên, ngập tràn đồng ruộng, ao hồ, vườn tược, làng quê, và phố thị của nhiều tỉnh thành miền Trung. Cuồng phong bão tố từ đại dương cuộn xoáy vào đất liền, kéo theo những cơn mưa xối xả ngày đêm. Nước lũ ngầu đục từ non cao đổ về, từ các đập thủy điện xả xuống, đẩy những dòng cuồng lưu ồ ạt đi về nơi trũng thấp, theo những nhánh sông hướng ra biển, chựng lại khi gặp mực biển dâng cao với cường triều gầm thét, sông nối biển biến vùng duyên hải thành một biển nước mênh mông.
30/09/2020(Xem: 19511)
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước..nhân Tết Nhi Đồng 2020 (HT Thích Tuệ Sỹ)
24/09/2020(Xem: 8789)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
21/09/2020(Xem: 12437)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
29/08/2020(Xem: 2583)
Khi được một bằng hữu tặng cho một quyển sách hay và quý, bạn vui vẻ nhận lấy, khen sách trình bày đẹp, đề tài lạ lẫm hấp dẫn, cảm ơn, rồi nhập vào hàng hàng lớp lớp những sách báo trên kệ tủ của mình, nói là từ từ khi nào rảnh rang sẽ đọc sau, rồi quên bẳng luôn, không sờ đụng đến lần nào nữa. Nếu vị bằng hữu đó mà biết được bạn đã đối xử với món quà tặng văn hóa, món quà tinh thần và nghĩa tình kiểu như vậy, chắc vị đó sẽ buồn lắm. Làm người khác buồn, là bạn đã mang tội. Trong trường hợp vị bằng hữu đó không hề hay biết gì hết, bạn vẫn mang tội, chứ không phải vô tội. Tội đó là tội xem thường.
27/08/2020(Xem: 5618)
Kính chiếu yêu ma bài viết của Cư Sĩ Huệ Hương (ở Melbourne, Úc Châu) Do Phật tử Diệu Danh (Hannover, Đức Quốc diễn đọc) Mười năm về trước khi đọc " CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI " của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh tôi vẫn không hề nghĩ đến có ngày mình phải dùng kính chiếu yêu này ... không phải cho người khác bên ngoài mà chính là dùng để soi rọi vào những con ma đang ẩn núp trong rừng tâm của tôi quá chằng chịt và rậm rạp nơi mà tập khí được chôn vùi và đã trở nên hoang dại đến nỗi rất khó để tháo gở được những rễ dây đã bám sâu trong đất Tâm này
14/08/2020(Xem: 5547)
Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ng
13/08/2020(Xem: 11310)
Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu. Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười: Không sao đâu, tôi chịu được mà! Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gi
09/08/2020(Xem: 12192)
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật. Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]