Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Kinh Nalakapàna

19/05/202010:31(Xem: 9327)
68. Kinh Nalakapàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



68. Kinh NALAKAPÀNA
( Nalakapàna  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn vô ngại
          An trú tại xứ Kô-Sa-La  (1)
            ( Còn có tên Câu-Tát-La )
       Tại Na-La-Ká-Pa-Na (2) nơi này,
          Trong rừng cây tên Pa-Lá-Sá (2)
          Cùng với Chúng Săng-Gá (3) tịnh, hòa .
 
              Lúc bấy giờ, đã xảy ra
       Nhiều Thiện-nam-tử danh gia, sang giàu,
          Cùng nhiều vị thanh cao vương-tử
          Vì lòng tin Điều Ngự Phật Đà,
              Từ bỏ gia đình, xuất gia,
       Như ngài A-Nậu-Lâu-Đà ôn nhu
        ( Cũng chính là A-Nu-Rút-Thá )
          Kim-Bi-Lá và Nan-Đi-Da ,
              Pha-Gu , Kun-Đá-Thá-Na ,
       Rê-Va-Tá , A-Nan-Đà … kể qua .
    _____________________________
 
( ) : Vương quốc Kosala  (Câu-Tát-La  hay Kiều-Tất-La ) có Kinh
     đô là Savatthi ( Xá Vệ ) dưới sự cai trị của vua Pasanadi – Ba-
    Tư-Nặc .( Kỳ Viên Tinh Xá cũng nằm trong địa phận Thành Xá
    Vệ này) . Tiều quốc Kapilavathtu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của Đức Phật
    cũng đặt dưới sự bảo hộ của Vương quốc Kosala .
 
(2) : Địa phương tên Nalakapàna , rừng cây tên Palasa .
(3) : Sangha  phiên âm Tăng-Già , là Chúng Tỷ Kheo đệ tử Phật.
      Bản chất Tăng-Già là thanh tịnh và hòa hợp .
(4) : Bảy vị cùng xuất gia : Anuruddha  (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-
      Luật ), Kimbila , Nandiya , Bhagu , Kundadhana , Revata (Ly-
      Bà-Đa ) và Ananda ( A-Nan ).
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  438
 
          Cùng số khác Thiện-gia nam-tử
          Có danh tiếng ; tuần tự xuất gia .
 
              Bấy giờ, Thế Tôn Phật Đà
       Đang  ngồi giữa Chúng Tăng Già vây quanh
          Giữa bãi cỏ, trời xanh gió mát .
          Đức Phật nhân vì các vị này 
            ( Các Thiện-gia nam-tử đây )
       Hỏi Tỷ Kheo Chúng : “ Các thầy Tỷ Kheo !
          Thiện-nam-tử họ theo Ta cả,
          Vì lòng tin Ta, đã xuất gia,
              Sống không gia đình, lìa nhà,
       Này Tỷ Kheo Chúng ! Trải qua như vầy
          Thiện-gia nam-tử này các vị
          Có hoan hỷ trong Phạm-hạnh chăng ? ”.
 
              Nghe Phật hỏi, nhưng Chư Tăng   
       Vẫn ngồi im lặng, không hằng nói chi .
          Lần thứ hai, rồi thì ba bận     
          Các Tỷ Kheo cũng vẫn lặng yên .
              Đức Thế Tôn suy nghĩ liền :
     ‘ Chi bằng Ta hãy hiện tiền hỏi qua
          Chính các vị Thiện-gia nam-tử ’.
 
          Rồi Điều Ngự câu hỏi đặt ra
          Cho nhóm A-Nú-Rút-Tha
    ( Ngài dùng “A-Nậu-Lâu-Đà” gọi chung ) :
 
    – “ Này các ông A-Nu-Rút-Thá !
          Các ông đã xuất gia, toại lòng,
              Có hoan hỷ Phạm-hạnh không ? ”.
 
– “ Rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn Phật Đà ! ”. 
 
    – “ Lành thay ! Những thiện-gia nam-tử !
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  439
 
          Vì lòng tin nên tự xuất gia,
              Sống không gia đình, ly gia
       Hoan hỷ trong Phạm-hạnh và siêng tu .
 
          Các A-Nu-Rút-Tha ! Trong lúc
          Tuổi trẻ đẹp, hạnh phúc, vui luôn,
              Tóc đen nhánh, tuổi thanh xuân,
       Có thể hưởng thụ, sống buông lung đời .
          Nhưng các ông quyết rời, từ bỏ,
          Lìa cửa nhà, giòng họ, gia đình,
              Tự nguyện sống không gia đình .
 
       Không vì mệnh lệnh buộc mình xuất gia,
          Không bị vua sai mà làm thế,
          Không vì kẻ trộm cướp bức thân,
              Không vì sợ hãi , nợ nần,
       Không vì thất nghiệp hay cần nương thân .
          Có phải rằng các ông suy nghĩ :
       ‘ Ta đang bị già, chết, sầu, bi,
              Sanh, khổ, não … những mối nguy
       Áp bức, chi phối mọi thì, mọi nơi .
          Nhưng ta thời luôn mong sẽ đạt,
          Chấm dứt các khổ uẩn vây ta ’.
              Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Có phải do vậy, xuất gia tu hành ? ”.
    – “ Thưa vâng, bạch Trọn Lành Thiện Thệ ”.
 
    – “ Và như thế, theo các ông thì
              Các ông cần phải làm gì ?
   *  Ly bất thiện pháp và ly dục liền !
          Nếu không chứng an nhiên hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác , tịnh yên,
              Dục tham chiếm, trú tâm liền .
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  440
 
       Rồi sân, trạo cử, thụy miên hôn trầm …
          Xâm chiếm tâm và an trú đấy .
          Hối quá, nghi, giải đãi, bất an …
              Xâm chiếm tâm và trú an .
 
       Khi nào chưa được hoàn toàn trải qua
          Ly bất thiện pháp và ly dục,
          Thời các vị không lúc nào an .
              Khi nào ly dục hoàn toàn
       Ly bất thiện pháp, mọi đàng tịnh thanh
          Thì vị ấy chứng nhanh hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác tịnh yên,
              Thời các triền-cái nói trên
       Không chiếm tâm được, không liền trú qua .
 
          Các A-Nú-Rút-Tha ! Ly dục,   
          Bất thiện pháp cùng lúc cũng ly,
              Thì chứng hỷ lạc tức thì
       Hay trạng thái khác phát huy, tịnh hòa .
 
          Các A-Nậu-Lâu-Đà ! Thường nghĩ
          Về Như Lai trong trí thế nào ?
              Như về các lậu-hoặc nào
       Liên hệ phiền não có sau khởi vầy,
          Đáng sợ hãi, đưa ngay lập tức
          Đến quả khổ dị thục này đây,
              Hướng sanh, già, chết tương lai,
       Lậu-hoặc chưa được Như Lai đoạn trừ .
          Nên sau khi suy tư, phân tích
          Ta thọ dụng một pháp , an như .
               Sau khi phân tích, suy tư  
       Nhẫn thọ một pháp, rồi trừ bỏ đi .
          Rồi sau khi suy tư phân tích
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  441
 
          Lại một pháp trầm nịch diệt xong,
              Các ông nghĩ thế phải không ? ”.
 
 – “ Bạch Đại Giác ! Chúng con không nghĩ vầy.
          Mà nghĩ ngay : “ Với Ngài Thiện Thệ
          Các lậu-hoặc liên hệ não phiền
              Sanh khởi hậu hữu , căn nguyên
       Đáng sợ hãi, đưa khổ liền đến nhanh
          Quả dị thục, hướng sanh, già, chết,
          Trong tương lai ; diệt hết điều này .
              Các lậu-hoặc được Như Lai
       Đoạn trừ tất cả, mảy may không còn .
 
          Khi Thế Tôn suy tư phân tích 
          Một pháp tích cực chọn thọ dùng .
              Sau khi nghĩ, phân tích cùng,
       Nhẫn thọ một pháp . Không dùng trừ đi
          Một pháp khác . Nghĩ suy phân tích
          Một pháp thuộc chướng nghịch diệt ngay ”.
 
        – “ Này các ông ! Thật lành thay ! 
       Những điều vừa được nói đây, rõ ràng
          Các lậu-hoặc liên quan phiền não
          Sanh khởi hậu hữu đáng sợ thay !
              Đưa quả khổ dị thục ngay,
       Hướng đến già, chết tương lai như vầy
          Được Như Lai đoạn trừ, trốc rễ
          Ví như thể thân cây Sa-la
              Bị cắt tận gốc rễ, và
       Không thể sanh khởi, trải qua chết dần .  
          Hoặc như phần ngọn cây vừa kể
          Bị chặt đứt, không thể lớn thêm .
              Này các ông ! Đoạn diệt êm
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  442
 
       Lậu-hoặc liên hệ ngày đêm não phiền,
          Được Như Lai diệt liền tận rễ
          Nó không thể sanh khởi tương lai .
              Do vậy, sau khi Như Lai
       Suy tư, phân tích, pháp nay thọ dùng.
          Sau khi dùng phân tich, nghĩ ngợi
          Nhẫn thọ với một pháp ở đây,
              Rồi từ bỏ, đoạn trừ ngay
       Một pháp, khi đã giải bày, suy tư .
          Vậy theo như các ông nghĩ đó          
          Do thấy rõ mục đích thế nào
              Ta giải thích tái sanh vào 
       Của các đệ tử khi sau từ trần ,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
        – “ Bạch Phật ! Với chúng con đây
       Y pháp, nương tựa bậc Thầy Thế Tôn,
          Hướng Thế Tôn, Ngài là lãnh đạo
          Các Pháp-bảo căn bản dựa Ngài .
              Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay !
       Nếu được Ngài giảng ý này rõ ra ,
          Sau khi nghe Phật Đà giảng giải 
          Các Tỷ Kheo theo vậy thọ trì ”.
        – “ Này các ông ! Phải nhớ ghi :
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  443
 
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này .
 
          *  Các A-Na-Luật ! Ở đây
       Tỷ Kheo nghe nói một thầy Tỷ Kheo
          Đã mệnh chung, tên nêu như thế .
          Đấng Thiện Thệ tuyên bố : “ Vị đây
              An trú Chánh Trí sâu dày ”.
       Khi nghe về Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Tỷ Kheo này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của vị Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Tỷ Kheo sống lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Vị Tỷ Kheo có nghe qua như vầy :
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  444
 
         ‘Một Tỷ Kheo mới đây đã mất
          Có tên thật được biết rõ ràng .
              Phật nói về vị này rằng :
     “ Diệt kiết sử năm hạ phần đích danh,
          Vị ấy đã hóa sanh, nhập diệt,
          Không có việc trở lại đời này ”.
          *  Lại có Tỷ Kheo ở đây
       Mệnh chung, được đức Như Lai nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Sau khi tự làm nhẹ bớt đi
             Cả ba độc : Tham, sân, si,
       Chứng Nhất Lai, phải trải đi một lần
          Sinh trở lại cõi trần, tu tiếp
          Rồi mãn nghiệp, diệt tận khổ đau ”.
          *  Lại nữa, vị Tỷ Kheo nào
       Mệnh chung, Phật dạy với câu nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Quả Dư Lưu đã tự chứng vào
           ( Cũng gọi Thất Lai thanh cao )
       Bảy lần vị ấy sinh vào thế gian,
          Không còn nữa con đàng đọa lạc,
          Chắc chắn chứng Chánh Giác sau này ”.
              Khi Chúng Tỷ Kheo ở đây
       Được nghe các Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Tỷ Kheo mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  445
 
       Của các Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Tỷ Kheo lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nậu-Lâu-Đà !
       Về phần Ni Chúng tịnh, hòa – cũng y .
          Khi có Tỷ Kheo Ni nào mất
          Được Đức Phật tuyên bố đặc thù :
             “ Vị ấy đã chứng an như 
       Bốn tầng Thánh quả - từ Tu-Đà-Hoàn,
          Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm quả,
          A-La-Hán - bậc đã Vô Sanh ”.
 
              Đức Phật tuyên bố đành rành .
       Tỷ Kheo Ni đó phong thanh nghe là :
        ‘ Tôn Ni giới hạnh bà như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Ni này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của Tôn Ni ấy, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Ni ấy lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Cũng vậy, đối với Nam và Nữ nhân
          Là Cư Sĩ – mãn phần, quá cố
          Phật cũng có tuyên bố lên rằng :
           “ Một số Cư Sĩ tinh cần,
       Chuyên tu, cũng chứng như Tăng, Ni vầy ”.
          Chính điều này, Nữ, Nam Cư Sĩ
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  446
 
          Nhớ những vị tín, giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn .
       Chú tâm trên ‘như thật’ –  hằng trú an .
          Và như vậy, bốn hàng đệ tử  
          Cũng được dự bậc Thánh uy nghi .
              Này các ông ! Phải nhớ ghi :           
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
 
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này ”.
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy
       Chúng Tăng tín thọ , lời Ngài khâm tuân .
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 68  :  NALAKAPÀNA  – 
NALAKAPÀNA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/10/2010(Xem: 13309)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 13731)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
01/10/2010(Xem: 5031)
Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.
28/09/2010(Xem: 7197)
Bao gồm nhiều ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người dân TQ trong xã hội xưa, “ Tăng quảng hiền văn” là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo, mang tính triết lý cao. 1 Tích thì hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn. Lời hay thuở trước, răn dạy chúng ta, theo vần cóp nhặt, hiểu biết rộng ra. 2 Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim. Xem nay nên xét xa xưa, ngày xưa chẳng có thì giờ có đâu. 3 Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỷ tâm. Biết mình phải biết người ta, đem lòng mình để suy ra lòng người. 4 Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm. Gặp người tri kỷ ta nâng cốc, thơ chỉ bình ngâm mới bạn hiền. 5 Tương thức mãn thiên hạ, tri tâm năng kỷ nhân. Đầy trong thiên hạ người quen biết, tri kỷ cùng ta được mấy người. 6 Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm. Gặp lại vui như ngày mới biết, chẳng chút ăn năn trọn tới già.
27/09/2010(Xem: 4153)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
06/09/2010(Xem: 10975)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
01/09/2010(Xem: 3253)
Vườn hoa Phật Giáo mênh mông, với nhiều sắc thái thành muôn màu rực rỡ. Mỗi đóa hoa đều có sắc có hương, để thành vẻ đẹp đặc thù của Phật Giáo. Chúng ta thấy đại dương rào rạt bao la không bờ bến, nhưng giọt nước nào cũng mang vị mặn của muối. Chánh Pháp của Đức Như Lai vô lượng vô biên, nhưng pháp nào cũng đều mang hương vị của giải thoát.Mỗi Vị Tôn Đức hoằng pháp đều có một phong cách riêng, có những tư tưởng nhận định riêng. Vị nào còn trẻ khoẻ thì thích đi hoằng pháp các nơi.
28/08/2010(Xem: 2895)
Du Hôn (truyện ngắn của Nhật Hưng)
27/08/2010(Xem: 3291)
Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức.
17/08/2010(Xem: 13669)
Lâu nay tôi thường cùng các thi văn hữu trao đổi với nhau những bài thơ, câu đối như là một thú vui tao nhã. Về thơ thì tôi vừa mới tập hợp thành tác phẩm Mưa Hè (nhà xuất bản Hồng Đức - quý hạ 2013). Riêng về câu đối, với tính chất riêng của nó, tôi tập hợp thành tập Thiền Lâm Ứng Đối hợp tuyển này, bao gồm một số câu đối trước đây đã được in và phát hành dưới dạng “Lưu hành nội bộ”, và một số câu đối đã được làm trong thời gian sau này. Những câu đối trong tập cũ in lại có hiệu đính, phần nhiều ở câu dịch nghĩa. Đa số những câu đối có nhân duyên từ các chùa trong tỉnh, ngoại tỉnh và một số chùa ở nước ngoài nhờ làm để trang trí. có câu còn ghi chú rõ, có câu tôi không còn nhớ làm cho chùa nào, ở đâu. Kính xin chư Tôn đức cùng quí chùa hoan hỉ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]