Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

26/02/201920:22(Xem: 3890)
Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

 

 

 tam nhien

 

Lăng Già Tâm, Tâm Nhiên cùng uống trà trong liêu vắng chùa Phi Lai, Biên Hòa, đêm tháng 2. 2019

 

 

 

  

 LĂNG GIÀ TÂM
TRẦM MẶC TRĂNG NGÀN

 

 

Thơ là tiếng hát ngàn năm, thâm thiết, miên man trong tâm hồn nhân thế, còn mãi đồng vọng, âm vang cao vút tận trời mây lẫn trong sương gió, nắng mưa giữa mùa trăng ngời xanh biếc huyền mộng. Trăng là hơi thở sơ nguyên của vũ trụ, hòa quyện thiết tha, nuôi dưỡng lòng người muôn thuở, là nguồn cảm hứng muôn nơi cho biết bao thiền sư, thi nhân, nghệ sỹ đi về trên cung bậc sáng tạo, khơi mở dòng đời :

 

Trời mênh mông đất mênh mông

Ta ngồi ngoảnh lại chiều đông qua rồi

Xuân về khoe sắc nơi nơi

Nghe trong cổ lục tàng khơi trăng vàng

 

Xuân là Tâm xuân, đất trời mới mẻ, tinh khôi trong lòng mình. Trăng vàng chiếu ra từ những trang cổ lục, cảo thơm, là hình ảnh ánh trăng tuệ giác siêu việt của nhân loại đã kết tinh từ thiên vạn cổ đến nay. Đó là vầng trăng Đức Phật, trăng Long Thọ, trăng Bồ Đề Đạt Ma, trăng Huệ Năng, trăng Lâm Tế, trăng Tuệ Trung Thượng Sỹ, trăng Không Lộ, trăng Huyền Giác… vẫn sáng ngời ngời, soi bước cho biết bao con người vượt qua bóng đêm dài sinh tử…Phải chăng, đó cũng là “Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn” mà nhà thơ Lăng Già Tâm cảm nhận, khi chiêm ngưỡng vầng trăng Tâm xuân giữa canh trường khuya vắng :

 

Trăng vô biên trăng hiện tiền

Nước trong trăng hiện ưu phiền lãng du

Nghiêng tay nhẹ vén mây mù

Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn

 

Dặm ngàn thiên thu trên từng bước như thị về, bàng bạc ánh trăng thi ca lãng đãng, trông thật thanh thản, an nhiên, muôn chiều phiêu hốt. Còn gì hân hoan hơn, khi bất ngờ thấy ra nguồn cội, bản lai diện mục của mình, dưới ánh vàng trăng tỏa bừng quang đãng : 

 

Nghe trong tự tánh âm vang

Cô luân nguyệt tỏa ánh vàng lung linh

Trăng soi mặt mũi chơn hình

Ngàn thu trăng chở vô thinh cội nguồn

 

Tự tánh thanh tịnh vốn sẵn hiện hữu tự bao giờ, luôn luôn có mặt sờ sờ ngay trước mắt đó. Thấy là thấy lập tức, diệu dụng ngay giữa thực tại hiện tiền (kiến tánh) còn không thấy thì cứ quờ quạng, lần mò trong xó xỉnh tối tăm, lẩn quẩn chung quanh cái ngã chấp thâm căn cố đế của mình (vô minh)mà thôi.

 

Từ khi “Nghe trong tự tánh âm vang” nhà thơ Lăng Già Tâm trầm nhiên thõng tay vào phố chợ Biên Hòa, vào ra ngôi chùa cũ, trà đạo cùng tao nhân, mặc khách, tùy duyên Chuyển Hóa* cõi người ta. Ra Phú Yên, về chốn miền thôn dã Hòa Thịnh, thinh lặng ngắm trăng rằm mát rượi, thoảng ngát hương đồng cỏ nội, tịch chiếu quanh vườn cổ tự Phi Lai. Lên núi rừng cao nguyên Đăk Lăk dạo chơi với hoang vu, thác đổ, sương mù. Rồi xuống biển Quy Nhơn, thả hồn thơ ngút ngàn bay theo mây trắng :

 

Chùa thiêng ngời im lặng

Chuông khuya vang tiếng không

Trăng xưa vờn biển mộng

Ta về trong mênh mông

 

Biển mộng vờn trăng xưa, long lanh lấp lánh màu vạn đại trước mông mênh đại hải, thấp thoáng bóng ta về, là hình ảnh “cô thân vạn lý du” của Lăng Già Tâm, một nhà sư tự tại, một nhà thơ an nhiên, đang cùng thiên địa Giao Cảm** trong một niềm trăng hằng cửu, chơn thường, bát ngát suối nguồn thương :

 

Trăng chơn thường

Trời mờ sương

Đời còn vương

Vạn tình thương

 

Trăng lung linh

Mắt lung linh

Nhập trang kinh

Vang bình minh

 

Tinh sương, sớm mai hồng lộng nắng vàng óng ánh, xanh biếc cỏ hoa trôi quanh gành đá, tuôn trào rào rạt xuống nguồn suối thương yêu, chảy tràn lan lai láng, bồi hồi. Suối nguồn yêu thương chan chứa giữa đại bi tâm, cuồn cuộn, róc rách reo ca theo dòng nước trong đục dung thông :

 

Rồi một sớm mai hồng

Đất trời bỗng sáng trong

Dòng suối ven bờ cỏ

Niềm vui rộn trong lòng

 

Thong dong là niềm vui mừng rỗng rang bừng dậy, để nụ cười bất tuyệt trổ mãi ngàn hoa lá trên đường về cố quận, nơi vườn Tâm ấm áp, chạm hồn trăng Chân Như ở đây và bây giờ, ngay trong từng hơi thở lạc an :

 

Sóng xao bờ cát

Trăng tỏ lối về

Vườn tâm sáng rạng đường quê

Trời Chân Như ấy bây giờ là đây

 

Vườn Lòng xưađã quy hồi, đã về đã tới thảnh thơi. Thi nhân trút sach hết bụi sầu vạn cổ, buông xuống chập chùng, nặng trĩu bao nỗi khổ, niềm đau, sau nghìn dặm lữ làm phong trần khách, lang thang từ vô lượng kiếp, chìm nổi, thăng trầm, chết đi sống lại giữa cuồng phong, sấm sét, ba đào :

 

Phong trần một kiếp lao đao

Nửa vành trăng khuyết biết bao nhiêu tình

Hỏi cây cây mãi lặng thinh

Hỏi mây mây cứ lênh đênh cuối trời

Đá mòn nhưng dạ chẳng rời

Tào Khê nước chảy sáng ngời Chân kinh

Chiều nay dừng bước phiêu linh

Bên con dốc đá tự tình rong rêu

 

Phiêu linh dừng gót bên dòng suối Tào Khê, bước lên thuyền Bát nhã, lắng nghe Huệ Năng thuyết Chân kinh: “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là Vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính. Đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh Vô niệm”. Mỉm cười, thi nhân nhận biết, thẩm thấu sâu xa và thực hành cái tâm không dính măc, kẹt vướng, một cách nhanh chóng :

 

Không vương không lụy ngoài trong

Vượt sinh tử mộng thoát vòng nhiêu khê

Qua rồi bể khổ sông mê

Thuyền neo bến giác đề huề gió trăng

 

Trăng gió vẫn đề huề trên đường thơ Lăng Già Tâm, thi nhân vẫn cất bước thung dung, thõng tay vào chốn bụi hồng :

 

Ta bà nặng gánh có không

Con thuyền Bát nhã thong dong lối về

Người đi rạng nét chân quê

Lời kinh vô tự đề huề gió trăng

Mai này trong cõi cô tung

Lắng nghe tiếng hát từ vùng Nguyên xuân

Có không nào để phân trần

Đến đi rồi cũng một lần ai ơi !

Trăng khuya chếch bóng mộng vời

Con đường sinh tử như lời ca dao

Trăm năm tiếng hát câu chào

Ngàn năm còn lại lời nào cho ta ?

 

Trăm năm là một kiếp người trong cõi ta bà, với đủ thứ mặn nồng, chua chát, đủ thứ ngọt bùi, cay đắng, lặng buốt tâm can, lòng dạ não nùng. Rồi ngàn năm vời vợi trong cõi vô cùng, vô tận kia, có còn gì nữa không, hỡi trời cao, biển rộng ? Nhà thơ tự hỏi rồi tự đáp, khi ngồi quán chiếu, xuyên suốt tam thế mộng, khắp mười phương, tám hướng, bốn bề :

 

Tâm nhiên rộn bước đường quê

Tâm Không là chính nẻo về trong ta

Tâm bình ấy bản trường ca

Tâm hòa nhẹ quyện thiết tha ru lời

Ai ơi ! Nhớ lấy nụ cười

Để thiên thu mãi sáng ngời Chân kinh

 

Chân kinh vô tự vốn không chữ mà đại thi hào Nguyễn Du đã đọc được nên phát biểu: “Khắp cõi là Không tánh thì đâu có tướng. Tâm này vốn thường định chẳng lìa thiền”. Thiên thu nụ cười chỉ có thể bừng nở rực rỡ, từ trên nền tảng tuyệt trần Chân Như tự tánh hay Pháp thân thường trụ mà thôi. Thấy như thế, nên nhà thơ Lăng Già Tâm nhập diệu vào bao la, cảnh giới bát ngát vô lượng thọ, vô lượng quang :

 

Dang tay đón ánh mặt trời

Nghe trùng dương gọi nụ cười thinh không

Nghe đồng vọng giữa mênh mông

Tiếng Chân Như hiện muôn trùng Pháp thân

 

Thật vậy,trời đất rộng lớn là do tâm ta lớn rộng, Thiền sư Suzuki đã nói như thế. Chữ tâm là chỉ cho tâm thức con người. Tâm thức quả thật bất khả tư nghì. Muốn nói về tâm, hiểu chữ tâm cho rốt ráo, đầy đủ ý nghĩa, thì không khác gì mình phải đọc lại toàn bộ tam tạng kinh điển, từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Ở đây, chỉ cần mấy câu thơ, thi nhân đã miêu tả cái tâm, cái lòng thênh thang như mây trắng :

 

Kinh vàng tỏa sáng màu trăng

Xuân vàng kết nụ vĩnh hằng trong ta

Sáng nay lòng bỗng bao la

Ý xuân hòa quyện ý ta muôn trùng

 

Thế là, suốt từ đầu đến cuối, cõi thơ Lăng Già Tâm vẫn trầm nhiên đi giữa ngàn trăng xanh biếc. Trăng phiêu bồng trên tuyệt đỉnh Tâm cao rờn tuyết trắng. Trăng lồng lộng dưới biển Lòng sóng vỗ âm vang. Trăng bảng lảng, bàng bạc trên Đường Trở Về*** quê quán cũ. Trăng ru đưa trên cành trúc biếc, lũy tre xanh, thoảng nhẹ hương cau quanh mái chùa làng thơm rơm rạ, trổ rộ vàng ngát hương bông lúa : 

 

Chùa tôi ngự ở giữa làng

Lũy tre ấm áp trăng vàng lung linh

Ai về ghé mái chùa xinh

Tắm trăng giữa tháng thắm tình quê xưa

 

Chùa tôi cõng nắng gánh mưa

Nhường cơm sẻ áo cho vừa lòng nhau

Chùa tôi nhẹ thoảng hương cau

Nhẹ điều thương ghét niệm câu Di Đà

 

Chuông khuya lay động trăng tà

Con chim cánh trắng la đà cõi tâm

Ai về ngọt lịm pháp âm

Ta về tự tánh thậm thâm suối nguồn

 

Muôn trùng giữa cuộc lữ đó đây, du sỹ này đã mấy lần ghé chùa Phi Lai ở Biên Hòa hay ra tận Phú Yên, về Hòa Thịnh viếng thăm Phi Lai cổ tự, như trở về cố quận tâm linh của mình vậy. Ngồi bên cỏ nội hoa ngàn, rót chén trà trên sân thượng, sương đêm lấp lánh ánh trăng sơ huyền thanh bạch, xanh trong. Thong thả, lắng nghe Lăng Già Tâm đọc những vần thơ đạo vị, cũng đủ cho du sỹ vô cùng phúc hạnh giữa bầu không khí mát lành, ở một vùng sâu heo hút cuối nẻo làng quê. Thế rồi, mấy hôm sau, trước khi lên đường, không quên để lại bài thơ : Phú Yên Miền Thôn Dã, kính tặng thi sỹ Lăng Già Tâm, đồng thời cũng là Hòa thượng Thích Thiện Đạo, bậc tôn túc trong chốn Thiền môn. Một vị thầy có tâm hồn phóng khoáng văn nghệ, rất bao dung và nhập thế :

 

Về Phú Yên qua mấy làng thôn xóm

Những cánh đồng sông nước lượn bờ tre

Rồi dừng lại cuối nhịp cầu Bến Củi

Hòa Thịnh đây rộn rã buổi quay về

 

Thơ mộng quá ! Phi Lai ngôi chùa cũ

Đứng cô liêu xanh lặng ngát hương đồng

Lồng lộng gió Tâm Kinh reo tịch mịch

Trăng Lăng Già tỏa rợp ánh mênh mông

 

Nghe chuyển hóa cả trời mây thấy được

Đường trở về cố quận giữa lòng sâu

Chiều phơi phới trổ hoa vườn tâm nội

Lối an nhiên rơi sạch hết bụi sầu

 

Ngồi lại đó cho thơ vào giao cảm

Tận đáy hồn đồng vọng khúc hoan ca

Là như thế viên dung cùng vạn hữu

Cười nhẹ thênh trên nhịp bước chan hòa

 

 

Tâm Nhiên

 

 

* Chuyển Hóa. Tản văn Thích Thiện Đạo. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản. Sài Gòn 2009

 

** Giao Cảm. Thơ Lăng Già Tâm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

*** Đường Trở Về. Tản văn Thích Thiện Đạo. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

Thơ Lăng Già Tâm, trích trong tập thơ Giao Cảm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24411)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9383)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10985)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3612)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5316)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10482)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15029)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3476)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]