Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh

06/08/201817:13(Xem: 7583)
Phật Giáo và con người đất Bình Đinh


Duong Kinh Thanh 2018 (8)

Hội Thảo Phật Giáo và Văn Hóa Bình Định

 

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh



1-Con người đất Bình Định

Khi  nói đến  con người và văn hóa Bình Định, một cách tổng quan, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra  những khía cạnh nhân văn rất đáng ngưỡng mộ. Trước hết đó là  Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ), trải lòng  trắc ẩn qua những áng văn thơ của một danh sĩ bôn ba đội lốt chăn trâu, chí nam nhi thời loạn, sự thức thời của sứ mạng vua tôi bên cạnh lẻ ứng sử trong  bối cảnh một đất nước tồn vong vì họa ngoại bang.Ông còn là người đầu tiên mang về cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635) bộ môn nghệ thuật Hát Bội (Tuồng) đặc sắc . Là một Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), ông Hậu Tổ của nền nghệ thuật Hát bội  đặc sắc của dân tộc, ông còn là nhà  nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, rất am tường Phật học lẫn Nho học. Rời một Mai Xuân Thưởng  ( 1860 – 1887 ) với mỗi tiếng thơ làm mỗi  tiếng thốt ra tự cõi lòng trước lúc đầu rơi. Một Tăng bạt Hổ ( 1858 – 1906 ) với con đường truân chuyên bôn ba   tứ xứ. Một Nguyễn Bá Huân ưu thời mẩn thế ( 1853 – 1915).Nguyễn Trọng Trì ( 1854 – 1922) chí khí lắng sâu đêm nguyệt tận, một lòng  một dạ với nghĩa quân Cần Vương . Là Đào Phan Duân ( 1864 – 1947) tiết tháo,  bỏ mặc ven đường học vị Phó Bảng đề đánh Tây. Một Hồ Sĩ Tạo ( 1841 – 1907 ) xả thân dưới cờ nghĩa, nằm lại đất này cho thơm tiếng Bình Định  ngàn sau. Hay như  đất  Vân Sơn có năm anh em  nhà họ Nguyễn rất giỏi thơ phú, thi ca, tiếng tốt  vang xa ai cũng đều mến phục.

                            Riêng trong dòng thơ mới, đất Bình Định  còn sản sinh ra những  nhà thơ  tài danh như  một Xuân Diệu ( 1916 – 1985) với  nỗi cô đơn  lai láng trong biển tình nhân thế. Hàn Mặc Từ( 1912 – 1940 ) bó hoa của những miền phiêu linh. Một Chế Lan Viên  ( 1920 – 1989 )với gạch rụng sao rơi  vắt ngang những ánh mắt Chiêm Thành . Còn có một thi nhân Quách Tấn  trang trọng, đài các của ngọn gió Đường Thi phả trên bờ dậu lũy tre, suối ngọt mây thơm quê hương Bình Định. Nơi này còn có tiếng gọi đò chờn vờn trong trăng lạnh của một Yến Lan ( 1916 – 1998 ) trầm mặc bên cạnh  ngọn bút viết kịch  tài hoa.( 1)

                           Đó là chưa  nhắc đần  Bình Định gắn liền với  câu ca dao xưa ca ngợi là một miến đất võ vang lừng khắp đó dây, nhất là  khi  cuộc chiến thắng của anh em nhà Tây Sơn thì môn võ đặc thù đã được thành hình và lan rộng  mọi nơi. Trong đó, trống võ Tây Sơn đã trở thành  một môn nghệ thuật  xuất sắc mà đến bây giờ vẩn còn làm  du khách  say đắm mỗi khi  ghé thăm.


2-Phật Giáo  đất Bình Định

Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được  nhiềuchư thiền Tổ  ghé bước hoằng hóa và  chư  tôn thiền đức bản địa xây dựng  mạnh mạch  Phật đạo  từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên  hình ảnh  Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định  đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi  nhiều kinh điền có  giá trị  để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường  hoằng hóa  của Phật đà luôn mang trong mình sức sống vị tha, nhân ái và hòa  bình, hữu nghị qua từng bước chân  hài cỏ của chư tổ ngàn xưa mà hình ảnh Tổ Nguyên Thiều là một điển hình cao đẹp ấy. Với Hòa Thượng Thích Phước Huệ, vị danh tăng làm rạng danh thêm  cho Phật giáo và vùng đất Bình Định, khi váo các triều vua Thành Thái( 1889 – 1907 ) , Duy Tân ( 1900 – 1945 ) và Khải Định (1885 – 1925) thường mời vào cung thuyết giảng nên được triều đình và sơn môn đồ chúng tôn xưng Quốc Sư.       

Năm 1970, để tưởng niệm và ghi công, Giáo Hội Phật Giáo Việt NamThống Nhất tỉnh Bình Định đã chọn pháp hiệu của hòa Thượng đặt tên cho  Phật học viện  tại tổ đình Thập Tháp: Phật học viện Phước Huệ. “Cái tướng Hữu, Vô trong tâm pháp của Ngài đã thống nhất, giúp cho hạnh nguyện độ thoát quần mê và sự tự tồn dân tộc qua  Duy Tân( Vua), Tâm Minh (Cư sĩ), Mật Thể, Thiện Hoa (tu sĩ).v…v.. trở thành ngọn nguồn bất tận, đến muôn đời sau của Phật giáo Việt Nam” (2).

ht thich bich lien
Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải (1876 – 1950)

                         Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải, người con của đất An Nhơn hiền hậu, Ngài cũng  góp phần làm rạng danh Phật giáo Bình Định nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung  trong quá trình tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo,  phụng sự táp chí Từ Bi Âm thường xuyên, góp phần  gióng lên hồi chuông thức tỉnh cho Phật giáo đồ  khắp chốn. Với văn phong chữ Nôm rất chỉnh,Hòa Thượng   phiên dịch trước tác các tác phẩm giá trị như Liên Tông Thập Niệm Yếu Lãm, Tịnh Độ Huyền Cảnh, Tây Song Ký, Tích Lạc Văn. Đặc biệt hơn các bài sám nghĩa  “ Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi”, hai tác p[hẩm chữ Nôm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hòa Thượng và là các bản sách gối đầu giường cho các thế hệ  mới bước vào nẻo xuất gia. Đó là chưa nói đến  hành trạng và công lao của chư tôn  thạc đức khác của Phật giáo Bình Định, từng vị với nhiều trọng trách khác nhau và điều kiện thời gian khác nhau, góp phần nâng cao vị thế  Phật giáo tỉnh nhà thêm cao trong lòng  dân tộc. Như Hòa Thượng Hưng Pháp ( 1887 – 1075), H.T Tâm Hoàn( 1924 – 1981), H.T Giác Tánh ( 1911 – 1987 ), H.T Thích Đổng Quán ( 1925 – 2009), Ni trưởng TN Diêu Hiền ( 1939 – 2014), H.T Thích thiện Nhơn ( 1931 – 2015), HT Thích Quảng Bửu ( 1944 – 2016), HT Thích Tịnh Nhẫn ( 1948 – 2013), H.T Thích Phước Thành ( 1918 – 2014) v…v…

                      Phật giáo Bình Định  còn sản sinh ra  dòng tán tụng của riêng  mình, so với Phật giáo Huế và Phật giáo Phú Yên, ba vùng đất  có hệ tán tụng  trong nghi lễ Phật giáo của vùng trung trung bộ này, góp phần  không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa, nghệ thuật, phổ cập trong công cưộchoằng hóa theo chiều dài lịch sử của từng vùng  đất Phật giáo hiện diện.Điều này chứng tỏ Phật giáo Bình Định  xứng đáng là một vùng đất vốn là nơi xuất thân của nhiều bậc danh tăng  lỗi lạc.

3- Hát Bội  đất Bình Định

                     Võ truyền thống, văn chương  kiệt  xuất, tất cả  như thấm đượm tinh thần  thưởng thiện phạt ác và Từ bi  Vị Tha của Phật giáo qua hai ngàn năm chia ngọt xẻ bùi và hòa quyện cùng dân tộc. Chỉ riêng bộ môn nghệ thuật Hát Bội thôi cũng đủ chứng minh  Bình Định chính là cái nôi sản sinh cho gia sản văn hóa dân tộc bộ môn đặc sắc này. Ở Bình Định, hầu như vùng nào người dân cũng ghiền và biết ca diễn Hát Bội.Có thời, mỗi xã thậm chí mỗi thôn nào cũng đều có thành lập một đoàn Hát Bội. Song để  có được tính chuyên nghiệp cao để được mời đi hát Tế, hát Thứ Lễ thì  không phải đoàn nào cũng làm được. Thí dụ, ví nằm gần làng Hát Bội Nhơn Hòa, gần học bộ đình Vinh Thạnh của Đào tấn nên người Nhơn Thành, An Nhơn không chỉ mê mà còn rành Hát Bội. Đã có  nhiều gánh Hát Bội thì phải có  bộ phận chuyên dựng rạp , sàn diễn. Vì thế ở vùng Đại Chí, xã Tây An, huyện Tây Sơn xưa có một tốp thợ chuyên phụ trách chuyện dựng rạp đi hát lễ.Đám hát nào họ cũng được mời đến trang trí rạp trước, ví có tay nghề cao và mang tính chuyên nghiệp hẳn hoi (3).

                     Không chỉ là yếu tồ giải trí đơn thuần, người Bình Định nói riêng  và khắp nơi nói chung, ngay từ buổi đầu sơ khai của bộ môn nghệ thuật Hát Bội đã mang lại,  người ta yêu thích bởi  nội dung chứa đựng đạo đức, nhân văn của  Hát Bội rất dầy đặc. Vì thế các vở diễn thường có kết cục có hậu  dù rằng ai cũng có thể biết trước . Điều rất thú vị là ở chỗ đó của Hát Bội. Điều này cũng ví như từng gương mặt hóa trang, điệu bộ, vũ đạo, khi diễn viên vừa bước  ra sân khấu  người xem nhận ra ngay hành tung của nhân vật đó ngay. Chính yếu tố đạo đức, nhân văn cao của hát Bội mà ông bà ta xưa đã  xây dựng  lối nghệ thuật ước lệ thông minh, không rườm rà hình thức tranh dành với  giả hợp  chung quanh, để người xem tập trung vào nhân vật, vào nội dung vở diễn.

                     Như đã nói, Phật giáo là một trong những  nguyên tố quan trọng , góp phần hình thành nên nếp sống, lối sống của người  và văn hóa đất Bình Định. Nghệ thuật hát Bội  cũng nằm trong nếp sống văn hóa ấy. Khổng Tử đã nói “Thẩm âm tri chính “ – Qua âm nhạc , nghệ thuật, để muốn biết giá trị tinh thần văn hóa nơi đó ra sao. Còn văn hào Pháp Victor Hugo ( 1802 – 1885 ) thí chinh trị hóa hơn khi cho rằng “ Một dân tộc nô lệ, nghệ thuật làm cho nó tự do; một dân tộc tự do, nghệ thuật làm cho nó vĩ đại”. Vì thế chúng ta từng chủ trương ra và sức bảo tồn giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc  chính là gìn giữ ý nghĩa  to lớn này.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (5)Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (4)

                   

Một thí dụ điển hình về giá trị tinh thần Phật giáo, con người và văn hóa đất Bình Định qua nghệ thuật Hát Bội. Đó là cụ Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), một người con  đất Bình Định ( người làng Vĩnh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước), một người rất am tường Phật học lẫn Nho học. Cụ là người có công lao rất lớn khi có một cuộc chỉnh biên các vở tuồng Hát Bội trong phường bản – tức các vở  đã có  trước  lưu hành trong dân gian. Và khi chỉnh biên xong đã trở thành  các vở của kinh bản, dưới triều vua Minh mạng ( 1791 – 1841 ). Vở hát Bội tiêu biểu nhất  mà cụ dày công chăm chút  là vở San Hậu. Một trong những vở Hát Bội hoàn toàn của  đất nước  và con người An Nam chúng ta, không phải của Trung Hoa, dù nội dung  có giã định  từ ngữ “Nhà Tề “ và “Nhà Tạ”.Theo các nhà nghiên cứu , chính cụ Đào Tấn đã chỉnh sửa và viết lại toàn bộ hồi thứ III của vở San Hậu, Nơi  mà có rất nhiều  tình huống nhân vật kịch chạm rất sâu vào  tư tưởng Phật giáo. Trước hết  về “thứ tự cấp bậc”( xin phép được nói vui) trong nhà Phật. Khi bà Nguyệt Hạo Tam Cung ( Tạ Nguyệt Kiểu ) vì buồn  chán ba đứa em dòng họ Tạ nhà mình, bỏ  vào tây Sơn Tự  xuất gia, nơi đó hiện có bọn xấu ( Giả Ngu) mạo danh tu hành chiếm ngụ, bày sẵn kế mưu để hảm hại bà, nhưng Hộ Pháp “ra lệnh “ cho Thành Hoàng : “Phụng mệnh Như Lai khiến / Nào dương cảnh Thành Hoàng (nghe ta dặn) Nay có bàNguyệt Hạo nương/ Thìn lòng nhân đức. có dạ tu trì/ Vã đây gần sơn tự ác tăng/ khá bảo hộ người lành kẻo hại.”Thành Hoảng đáp : “Thừa kim Thần sắc hạ/ Quản chúng tới hộ tòng/ Phòng khi chúng nó hành hung / Thời đã có ta bảo hộ”. Xuất hiện trong vở chỉ có  mấy câu đới đáp đó chỉ bằng âm thanh hậu trường, thay vì cho Quan Âm Bồ Tát  ra tay thậm chí Như Lai Phật Tổ  giáng phép , bấy nhiêu đó cũng đủ chứng minh ngòi bút của Đào Tấn   hiều biết Phật học ở cấp độ nào. Đả có nhiều  ý kiến khẳng định  Nội dung Hát Bội  hầu hết đều đề cao Nho gia, ca ngợi khí tiết quân chủ “Quân xử thần tử, Thần bất tử bất trung, bất hiếu”. Do đó con có thể chống lại  cha mẹ hay ngược lại, anh em , thân bằng quyến thuộc có thể trở thành cừu nhơn chỉ vỉ để bảo vệ nề nếp của đạo quân thần tử  theo kiều ấy. Và như thế  người ta so sánh vai trò Phật giáo trong các vở Hát Bội thường bị lu mờ, thậm chí trái ngược với chủ đề   nền tảng Nho gia. Thật ra  sự xuất hiện   của Phật giáo trong nội dung  Hát Bội thường nằm  ở góc độ tiềm ẩn và bàng bạc  trong các nội dung là  triết lý Nhân- Quả  khá rỏ nét. Có thể gọi đó là cái NHU so với cái CƯƠNG của Nho gia trong Hát Bội. Trong vở hát Bội San Hậu  thì những điều đề cao Nho gia đều bị hụt hẩng bởi cái NHU của Phật giáo thắng thế. Quả thật cụ Đào Tấn  luôn muốn đề cao  triết lý  Từ Bi, Nhân – Quả  của Phật giáo rõ nét hơn, phủ trùm lên nhiều nhân vật. Khi bọn Giã Ngu bị  Thành Hoàng Thổ địa vặn họng bẻ tay thì kịp lúc Đổng Kim Lân và Phàn Diệm cũng tới nơi và nói “Tới đây vì có Thần linh/ Cứu đặng cũng nhờ ơn Phật”. Và triết lý Từ Bi Nhân-Quả của Phật giáo trong vở được  cụ Đào Tấn đầy lên  đỉnh điểm ở phần cuối vở San Hậu. Đó là  cảnh trước  Phật đài   hương khói uy nghiêm của Tây Sơn Tự Bà Tam Cung Nguyệt Hạo – hiện cũng là  một vị Ni giới xuất gia, cho năm anh em dòng họ Tạ ( hiện đang  còn sống sót có hai Tạ Thiên Lăng và Tạ Lôi Vân), đang quỳ phủ phục, thấy rõ cái Quả mà họ đã tạo ra trước đây mà mình đã từng khuyên ca nhưng  không được.Với cái NHÂN lành của bà  Nguyệt Hạo  trước đây, từng ra tay cứu  giúp mẹ con thứ phi Phượng Cơ và ấu chúa, nay vua đã được  6 tuổi, bà van xin tha mạng cho hai đứa em tội nghiệp do nghiệp chướng sâu dầy. Hoàng tử vội đỡ  bà đứng lên và kính thưa lễ phép “Thưa Á Mẫu! Chi hai mạng chẵng dung/  Ước còn năm cũng thứ “. Thông thường đạo vua tôi Quân- Thần- Tử, công và tội phân minh. Xử chém trước rồi nói chuyện  ơn nghĩa sau. Ở đây lại khác,  Cụ Đào Tấn  nhấn mạnh đức hiếu sinh và lòng từ đại lượng của Phật giáo bao giờ, lúc nào, ở đâu cũng nằm trên thế  thượng võ, đáng được  đề cao.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (3)

Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (1)
Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (2)

Tác giả Dương Kinh Thành
Bên Bảo Tháp Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang (xem tiểu sử)




Tưởng cũng cần nói thêm  rằng trong nghệ thuật Hát Bội có nhiều thể loại để phân định qua cách gọi Tuồng Đồ , Tuồng Pho, Tuồng Truyện, Tuồng Hài, Tuồng Dân Gian v…v..Như vậy vở San Hậu thuộc  thể loại  Tuồng Đồ, tức phóng tác hay dựa theo, không có trong sử sách. Tuồng Pho là thể lọai  biểu diễn dài hơi, kéo dàinhiều đêm mới hết vở diễn. Tuồng Truyện phần lớn thuộc  truyện của Trung Hoa như  Tam Quốc Chí, Tiết Nhơn Quý.v…v…Tuồng Hài như “Ông Trượng Tiên Bửu, Ông Địa và Nàng Tiên, Trương Ngáo Đòi Nợ Phật, Trương Đồ Nhục v…v…Tuồng Dân Gian như Ăn Khế Trả Vàng, Quan Âm Thị Kính. Quả Báo Nhãn Tiền v…v…Qua đó, chúng ta  thấy rõ không phải vở diễn Hát Bội nào cũng  thuộc  lịch sử, câu chuyện của Trung Hoa. Ngay cả cách hóa trang, điệu hát hoàn toàn  không giống bất kỳ một chi tiết nào của  thể loại Kinh Kịch  của xứ người. Có thể, còn chút vương vấn  bị cho là “lai Tàu” hoặc qua  các bộ giáp trụ của diễn viên Hát Bội chúng ta ? Nhưng điều đó cũng không cáo gì sai trài một khi tinh túy và hình thức của Hát Bội đã hoàn toàn  thuộc về bản sắc người An Nam từ lâu. Ngay như  Hát Bội Bình Định  ( đại diện cho cả khu vực  miền trung) và Hát Bội miền Nam cũng đã rất  khác nhiểu mặt, dù nội dung các vỡ diễn vẫn trung thành, thống nhất như nhau. Tưởng  cũng chẳng thứa khi chúng ta  biết thêm một thí dụ nữa là  về vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại (  miền Nam gọi thân mật là Thầy Ba Đợi), vốn là một nhạc quan triều đình nhà Nguyễn, chạy tránh loạn vào nam sáng tác các bài bản được cho là  các bản Tổ củaNhạc Lễ và  nhạc tài tử Nam Bộ, dựa vào  tiêu chuẩn của hệ thống  nhạc cung đình Huế  và ca Huế trong dân gian. Vì thế tuy nghe tựa đền  bài  hát  không khác với Ca Huế  hay nhạc cung đình như Lưu Thủy, Cổ bản Kiêm Tiền, Phú Lục, trong hệ thống “Ba Nam, sáu Bắc, Bảy bài”, hay “Tám bản Ngự’.v..v…nhưng khi nghe thì khác xa nhau hoàn toàn.( Long vị của ông Ba Đợi thờ tại  đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ huyện Cần Đước tỉnh long An: “Phụng sự quá vãng Nguyễn Quang Đại nhứt vị chi linh- Hoàng triều nhạc sư- Nam Bộ đại nhạc tông” ).

4- Tổng Luận

 Như vậy, con người và văn hóa đất Bình Định, trong đó có  tinh thần chân lý như thị của Phật giáo đóng góp rất lớn, đem nhiều lợi lạc cho cuộc sống hôm nay và cả đến mai sau. Có những  con người, những vấn đề vì  nhiều nguyên do khách quan nào đấy , còn đang chờ đợi nhân duyên tác hợp để củng cố và tăng cường cho sức mạnh  Phật giáo cũng như con người   Bình Định. Ai trong chúng ta cũng đều có  chung một niềm tin như thế vì đó là một niềm tin chánh đáng , và trên hết  bằng tinh thần yêu  truyền thống dân tộc thiết tha, , nhất định  một tương lai tươi sáng sẽ sẵn chờ đón  phía trước.

 

Kính chúc Hội Thảo thành công tốt đẹp.

 

Sài gòn , tháng 6/ 2018

Dương Kinh Thành

( Trung tâm Nghiên Cứu  Phật Giáo Việt Nam)

 

 

 

 

Các chú thích:

1)      Trích văn Hóa và con người Bình Định.

2)      Trích Danh Tăng Việt Nam-NXB Tôn Giáo 2017-Đồng Bổn chủ biên.

-          Lược Khào Phật Giáo Sử VN- Vân Thanh- VHĐ ấn hành 1974.

-          Lịch sử Phật giáo Đàng trong- Nguyễn Hiền Đức- Tập I-NXB thành Phố 1996

3)      Theo Hát Bội Bình Định-Văn Hoc Nghệ Thuật-vanchuongviet.org.

Và các  bài viết chuyên đề Nghệ thuật sân khấu Phật giáo của  tác giả đăng trong các tạp chí và Tập Văn BVNTW/GHPGVN số 41/ NXB TP.HCM 1998.

______

* Bài liên quan:

 

Hàn Mặc Tử và Thơ Phật Giáo (Cư Sĩ Trí Bửu)

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh (Cư Sĩ Dương Kinh Thành)

  Sự Đóng Góp của Chư Tăng Bình Bịnh .... (TT TS Thích Hạnh Bình)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3034)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1399)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 725)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 697)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 891)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1204)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 895)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8923)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 681)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1551)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]