Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về năm Dậu - *rơ(ka) - gà

03/12/201600:15(Xem: 4187)
Tản mạn về năm Dậu - *rơ(ka) - gà


con ga

Tản mạn về năm Dậu - *rơ(ka) - gà  (phần 14A)


Nguyễn Cung Thông

Phần này viết về năm con gà (Dậu), tiếp theo1 phần 14 "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Dậu - *rơ(ga) - gà (phần 14)", chú trọng đến các dạng khác nhau của danh từ gà cũng như tại sao loài gia cầm này giữ một vị trí đặc biệt trong 12 con giáp Á Châu. Các âm thanh của gia cầm rất quen thuộc với con người - từ ngàn năm qua -  là tiếng chó sủa, tiếng gà gáy và mèo kêu meo meo ... Chỉ có tiếng gà gáy đã ghi lại nhiều dấu ấn trong văn hóa và ngôn ngữ vì có khả năng liên hệ trực tiếp đến thời gian (giai đoạn mặt trời mọc). Bài này đánh số 14A vì nằm trong loạt bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp", phần 14 là bài 1 viết về Dậu (năm con gà) và phần 14A là bài viết tiếp theo phần 14. Các tài liệu tham khảo chính viết tắt trong bài là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự, Hứa Thận soạn khoảng 100 SCN), TVGT1 (Thuyết Văn Giải Tự 1, bản thời Tống năm 968), TVGT2 (Thuyết Văn Giải Tự chú giải viết bởi học giả nhà Thanh Đoàn Ngọc Tài), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV  (Tập Vận/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), HV (Hán Việt), BK (Bắc Kinh, ghi âm theo pin yin/Bính âm hiện đại), TCN (Trước Công Nguyên), NCT (Nguyễn Cung Thông). Không nên lẫn lộn giữa số chỉ thanh điệu ghi sau một âm tiết và số phụ chú. Dấu hoa thị * là dạng âm cổ phục nguyên (reconstructed sound).

1. Nguồn gốc và các cách đọc chữ Dậu

Dậu là một trong 214 bộ thủ chữ Hán, có gốc tượng hình (hình bình/vò rượu - xem chi tiết trong bài 14 đã dẫn), cho nên một số tài liệu Hán cổ ghi Dậu là rượu (Thích Danh 釋名). Nếu Dậu có nghĩa nguyên thủy là con gà thì không có vấn đề gì, nhưng Dậu không có liên hệ ngữ âm nào với gà (kê HV) nên cần tìm hiểu sâu xa hơn. Vương Sung (27-97), trong tác phẩm Luận Hành, có thể là học giả đầu tiên đã ghi nhận Dậu là gà (酉-雞也 Dậu - kê dã) và bàn thêm về thuyết âm dương ngũ hành cùng 12 con giáp. Điều này cho ta biết khá chính xác là vào đầu thế kỷ I (thời Đông Hán) ta đã dùng 12 con giáp. Tuy nhiên, âm Dậu có liên hệ gì đến gà khi nhìn rộng ra và so sánh các ngôn ngữ láng giềng? Tương quan Dậu - tửu - rượu cho ta khả năng phục nguyên phụ âm đầu cổ của Dậu là một loại phụ âm đầu lưỡi quặt hay bẹt (r/l), phù hợp với cách ghi trong Bạch Hổ Thông 白虎通 (Ngũ Hành) của Ban Cố (32-92) 酉者,老也 Dậu giả, lão dã. Ít người biết Dậu từng có nghĩa là lão, thật ra cũng liên hệ đến rượu2 vì để men lâu (lão) thì thành rượu! Lục Thư Chánh Ngoa (LTCN) đặc biệt ghi lại cách đọc Dậu là *lu? (so sánh lão - khù)

LTCN

 

Xem lại các cách đọc của Dậu 酉 丣 (thanh mẫu dĩ 以 vận mẫu vưu 尤 thượng thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

與九切 dữ cửu thiết (QV, LT)

與久切 dữ cửu thiết (TVGT, QV)

以九切 dĩ cửu thiết (TV, VH, TG 字鑑)

弋帚切 dặc trửu thiết (NT, TTTH)

羊久翻 dương cửu phiên (BH 佩觿)

余帚乀 dư trửu phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)

呂九切  lữ cửu thiết (LTCN  六書正𨫠)  - xem hình chụp bên trên - để ý đây là cách đọc cho dạng 丣 cổ hơn của 酉 và liên hệ trực tiếp đến tên 12 con giáp!

TNAV ghi vận bộ 尤侯 vưu hầu (thượng thanh)

CV ghi cùng vần/thượng thanh 有 右 友 酉 丣 牖 卣 脩 槱 梄 庮 琇 莠 誘 羑 輶 攸 (hữu dậu dũ dữu dửu tú dụ du)

云九切,音牖 vân cửu thiết, âm dũ (CV) - thời CV về sau, hai phụ âm v và d đã nhập thành một

云九切,音有 vân cửu thiết, âm hữu (TVi, CTT)

...v.v...

Giọng BK bây giờ là yǒu so với giọng Quảng Đông jau5 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] riu1 riu3 [台湾四县腔] ju1 ju3 [宝安腔] ju1 jiu1 ju3 jiu3 [陆丰腔] jiu1 [东莞腔] jiu1 [梅县腔] ju2 [客英字典] ju1 ju3 [客语拼音字汇] yiu1, tiếng Nhật yuu và tiếng Hàn yu. Dựa vào các dữ kiện ngôn ngữ trên, âm trung cổ phục nguyên của Dậu có thể là *jĭəu, và dạng thượng cổ phục nguyên có thể là *l/ru? (dạng đơn tiết). Phụ âm đầu lưỡi r/l phù hợp với cách gọi tên Dậu của tiếng Khme (Raka), tiếng Saek mới (La6kaa1, raw3), tiếng Thái/Xiêm (Rakaa1) và tiếng Ahom3 (Rao), tiếng Yay (ru6), tiếng Lu (hrau). Một điểm cần phải nhắc lại ở đây là học giả lão thành Haudricourt từng đưa ra nhận xét rằng các âm vang (voiced) ở vị trí đầu như v, d, g tiếng Việt tương ứng với các âm điếc (voiceless) trong tiếng Mường, và cũng có thể giải thích quá trình tha hóa của các tiền tố từng hiện diện trong tiếng Việt cổ:

 

Tiếng Việt                  gà        gạo      vải

Tiếng Mường             ka        kao     pai

Tiếng Ruc                  rơka    rơko     kupal

Tiếng Arem                lak

Tiếng Mày                  rơko                 kơpal

Tiếng Nguồn              ka2

 

Xem lại chữ kê5 HV 雞 鷄 - kê (gà) là âm cổ còn duy trì trong tiếng Việt, có thể là một dạng tượng thanh (nhái lại tiếng gà kêu), nhưng không có các tương quan ngữ âm như trên. Điều này cho thấy kê và Dậu không tương ứng trong ngôn ngữ Hán như Dậu và *rơka gà trong nhánh Việt Mường. Do đó, các dạng đa tiết cổ hơn như *rơka của âm Dậu có khả năng đến từ tiếng Việt cổ. Quá trình đơn âm hóa làm ta khó nhận ra âm cổ đa tiết4: như Bà La Môn/Phạm Ma > Phạm - bảo lưu phụ âm đầu, A La Hán > La Hán - duy trì âm tiết cuối

*sla/*hla > lá (Việt) tiền tố tha hóa

*rơka > *ru > *ju (Dậu HV) duy trì âm tiết đầu

*roka > ka (gà tiếng Mường) duy trì âm tiết sau

 

 

Cũng như dạng cổ *mata với quá trình đơn âm hóa như sau

*mata > mắt (tiếng Việt)

*mata > tha (mắt tiếng Tày Nùng)

...v.v...

2. Gà trong truyền thống nông nghiệp - thời gian

Loài gà là gia cầm phổ thông nhất trên thế giới, khoảng 3 lần dân số trên thế giới (thống kê vào năm 2011), đồng hành với nông dân từ ngàn xưa. Loài gà được dùng làm nguồn lương thực, cũng như trứng gà, và đặc biệt hơn là đồng hồ báo hiệu thời gian cho nông dân bất kỳ ở nơi nào trên trái đất. Ngay cả trong năm canh (đêm năm canh) thì ta chỉ có "canh gà" (một khoảng thời gian, khi trời gần sáng) chứ không có canh chó/canh mèo, và chỉ có loài gà mới có khả năng "cầm canh/gà cầm giờ" (VBL - trang 253). Vì vậy, ý nghĩa tượng trưng của gà là uy tín và đúng giờ. Cầm canh/cầm giờ là một hoạt động quan trọng của địa phương ngày xưa vì không có đồng hồ chỉ giờ chính xác, do đó cần có phương cách chính thức để dân chúng địa phương cùng theo. Do đó mỗi làng xã đều có nhiều người đảm nhận nhiệm vụ "cầm canh/cầm giờ" như đánh trống canh chẳng hạn. Ngoài các chức năng trên ra, phân của loài gà cũng rất hữu ích cho việc trồng trọt vì là một loại phân bón hữu cơ (organic fertiliser). Tên 12 con giáp dùng để chỉ thời gian (năm, tháng, ngày, giờ) cho nên trong các loài vật gần gũi với nông dân, loài gà có mặt thì thật là thích đáng vì khả năng báo hiệu thời gian, phản ánh qua ca dao tục ngữ của dân gian

Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa

Chó giữ nhà, gà gáy sáng

...

Lao xao gà gáy rạng ngày

Vai vác cái cày, tay dắt con trâu

...

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

Đêm hôm khuya khoắt,

Con gà nó gáy sang canh       (Lý Hạng Ca Dao)   …v.v…

Ký ức tập thể về khả năng báo hiệu thời gian của loài gà đã hiện diện thời Kinh Thi, chép lại các bài thơ từ thế kỷ XI đến VII TCN, phần Quốc Phong - Trịnh Phong:

女曰雞鳴,士曰昧旦

Nữ viết kê minh, sĩ viết muội đán

TVGT (thời Đông Hán) còn ghi  知時畜也 tri thì súc dã. Tuy nhiên Ngọc Thiên thì ghi "ti thần điểu, tri thì điểu" (chim biết/báo giờ - kê/gà chữ Hán có thể viết bằng bộ điểu6 hay bộ chuy). Các tài liệu sau này (QV/TV/LT/LKTG/TVi/CTT) đều chép lại câu trên của TVGT. Vấn đề trở nên thú vị hơn khi tiếng Việt không phân biệt gà trống hay gà mái gáy, tuy cách dùng "gà mái" thường hàm ý tiêu cực. Văn hóa Hán có những thành ngữ về "gà mái" như 牝雞司晨 tẫn kê tư thần (gà mái coi/báo thời gian) - hàm ý phái nữ nắm quyền hành/tiếm quyền, cũng như gà mái mà gáy là chuyện lạ đời hay một điều không tốt - dựa vào kinh nghiệm gà mái không có gáy như gà trống. Các thành ngữ bốn chữ khác có cùng nghĩa là 牝雞司旦 tẫn kê tư đán (gà mái coi/báo buổi sáng), 牝雞牡鳴 tẫn kê mẫu minh (mẫu là gà trống/con đực, minh là gáy), 陰差陽錯 âm sai dương thác, 陰盛陽衰 âm thịnh dương suy ...v.v...

Cũng nên ghi nhận thêm ở đây là văn hóa Hán về gà có phần khác với Việt, như tục lệ đeo trước ngực một túi nhỏ màu đỏ hình quả tim gà, trong đó đựng gạo/trà/phấn hùng hoàng để tránh tà và trừ tai ách ... Tim gà là kê tâm 雞心 đọc là jī xīn (theo giọng BK bây giờ/pin yin), phát âm gần như kí tính 記性 (đọc là jì xìng BK) với ước mong là có trí nhớ tốt để sau này thành công. Dậu kê 酉雞 đọc là yǒu jī (BK) phát âm gần như  yǒu jí (BK) hữu cát 有吉 hàm ý được việc tốt lành!

Như vậy gà gáy (ảnh hưởng nội tại) có phải báo buổi sáng hay là trời sắp sáng (ảnh hưởng môi trường bên ngoài) làm cho gà gáy? Đây là một điều mà bao ngàn năm qua, từ Tây sang Đông, nhiều người đã cảm nhận nhưng không ai xác định một cách khoa học và nghiêm túc. Theo các nghiên cứu về hiện tượng gà gáy mới nhất, thì loài gà có sẵn một đồng hồ nội tại (internal clock) thành ra mỗi khi rạng sáng thì gà trống thường gáy lên chứ không phải là do ảnh hưởng bên ngoài (mặt trời mọc, bắt đầu có ánh sáng). Đây là một khám phá mới cho một hiện tượng cũ dựa vào chu kỳ hàng ngày (daily cycle, thức và ngủ) chứ không cần phải chờ đến khi mặt trời mọc. Hầu như mỗi sinh vật trên trái đất đều mang trong người đồng hồ sinh học (biological clock) này, dựa vào chu kỳ của ban ngày và ban đêm, gọi là nhịp điệu hàng ngày hay nhịp sinh học (circadian rhythm7) với chu kỳ vào khoảng 24 giờ. Các khảo cứu gần đây tìm thấy một số gene (gien) ảnh hưởng đến đồng hồ sinh học trong cơ thể con người và một số động vật. Hiểu được nguồn gốc và cấu trúc của đồng hồ sinh học sẽ giúp rất nhiều việc trị liệu các triệu chứng như mất ngủ, jet lag và một số bệnh liên hệ về tim mạch/béo phì ...  Trở lại với hiện tượng gà gáy vào rạng sáng, trong một bản báo cáo khoa học gần đây (2015) Shimmura/Ohashi/Yoshimura8 đã đưa kết luận là gà gáy sớm nhất là có vị thế cao nhất trong cộng đồng (nhóm) gà địa phương, cho thấy một tổ chức có thứ tự từ cao đến thấp, do đó làm giảm ảnh hưởng của nhịp sinh học qua yếu tố xã hội (đẳng cấp trong cộng đồng, trật tự trong nhóm). Loài khỉ và gà có nhịp sinh học giống như loài người, khác với loài mèo và chó ít bị ảnh hưởng hơn. Thế giới thực vật cũng dùng nhịp sinh học để xác định thời kỳ nào ra bông và kết trái, cũng như cho thụ phấn, tỏa hương thơm để cho kết quả sinh tồn tốt nhất. Một kết quả của nhịp sinh học là khi chúng ta đi qua một vùng (du lịch, du học) khác không cùng múi giờ, trong mình sẽ cảm thấy mệt mỏi, mất ngủ, nhức đầu, chóng mặt, ói mửa ... Triệu chứng này gọi là jet lag cho thấy phản ứng của cơ thể khi có những thay đổi từ bên ngoài (rối loạn thời gian và chu kỳ thức ngủ).

 

 

Đồng hồ sinh học 24 giờ (circadian clock) quen thuộc của thân thể chúng ta bị đảo lộn khi từ múi giờ này sang múi giờ khác: kết quả là hội chứng jet lag (tạm dịch là "say máy bay").

Tóm lại, dựa vào dạng âm cổ phục nguyên của Dậu là *ro(ka)/*ru(ka), ta có cơ sở để đặt lại vấn đề nguồn gốc tên gọi 12 con giáp: không phải từ gốc Hán như bao nhiêu người lầm tưởng từ Đông sang Tây và qua bao ngàn năm nay. Dậu là ký âm của một ngôn ngữ cổ đã nhập vào tiếng Hán cổ, tiếng cổ đó là tiếng Việt cổ, phù hợp với nghĩa của Dậu là gà chứ không phải là vò rượu (giáp văn và kim văn, Hán ngữ). Kết luận này tương thích với truyền thống và lịch sử loài gà rất gần gũi với đời sống nông nghiệp - truyền thống của phương Nam chúng ta. Tiếng Việt đã ghi lại dấu ấn của loài gà qua cách dùng canh gà để chỉ thời gian, yếu tố thật quan trọng cho nông nghiệp. Đây là một cách dùng độc đáo để tuyên dương công trạng của loài gia cầm này, không những là một thành viên của tên 12 con giáp mà còn thể hiện trong cuộc sống hàng ngày với ruộng vườn.

 

3. Phụ chú và phê bình thêm

Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để bạn đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Bạn đọc có thể tra thêm nhiều chi tiết bằng google trên mạng hay qua loạt bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp" của cùng một tác giả (Nguyễn Cung Thông).

1) Nguyễn Cung Thông (2009) "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Dậu - *rơ(ga) - gà (phần 14)" - xem toàn bài trên các trang http://newvietart.com/index4.506.html  hay  http://giaocam.saigonline.com/HTML-N/VSNguyenCungThong/NguyenCungThongPBNguonGocVNCuaTen12ConGiapPhan14DauGa.pdf

2) Một dạng chữ Nôm cổ chỉ rượu là dùng chữ lưu 留 hay chữ tửu hợp với chữ lưu hài thanh:

 

Uống rượu, đánh đưa gian dữ nhẫn thác thay  (Phật Thuyết Đại Bái Ân Trọng Kinh)

...

Túi thơ bầu rượu quán xênh xang      (Ức Trai Di Tập)

...

Rượu thết so le mong rủ nguyệt

Ca xoang ánh ỏi khéo chiều người     (Khâm Định Thăng Bình Bách Vịnh Tập - Trịnh Tùng)

...

Thật ra trong vốn từ Hán cổ, nếu đọc kỹ thì sẽ thấy vết tích của tương quan *lu và rượu, thí dụ như chữ lao được ghi nhận trong Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa "Thuần Lao rượu ngọt mỹ mùi". Chữ lao 醪 (thanh mẫu lai 來 vận mẫu hào 豪 bình thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

魯刀切 lỗ đao thiết (TVGT, ĐV, QV) - QV/TV ghi bình thanh

音牢 âm lao (NKVT 五經文字)

音勞 âm lao (LKTG)

勞音 lao âm (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)

力刀切 lực đao thiết (NT, TTTH)

郞刀切,音勞 lang đao thiết, âm lao (TV, LT, VH, CV)

TNAV ghi vận bộ 蕭豪 tiêu hào (dương bình)

CV ghi cùng vần/bình thanh 勞 簩 澇 潦 撈 轑 牢 醪 (lao lao/lạo)

郞刀切,音牢 lang đao thiết, âm lao (TVi)

盧豪切,音牢 lô hào thiết, âm lao (CTT)  ...v.v...

Giọng BK bây giờ là láo so với giọng Quảng Đông lou4 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] lau2 lo3 gau3 [客英字典] lau2 [台湾四县腔] lau2 lo3 gau3 [梅县腔] lau2 潮州话:lau5, tiếng Nhật rou và tiếng Hàn lyo. Một dạng âm cổ phục nguyên là *ruːw tương ứng với dạng rượu tiếng Việt, tuy nghĩa có phần hơi khác (lao là rược đục/có cặn hay rượu nồng). Lao là chữ khá hiếm trong vốn từ Hán, có tần số dùng 990 trên 432071706. Ta thường đọc là dao (cụ Thiều Chửu/HVTĐ) cho thấy khả năng ngạc cứng hóa của phụ âm đầu lưỡi l-.

3) Tiếng Ahom không còn hiện diện, tuy nhiên từng là ngôn ngữ chính của vùng Assam (đông bắc Ấn Độ) từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII. Dân tộc Ahom gốc từ Vân Nam di thiên qua các vùng Đông Nam Á và Bắc Ấn, tiếng Ahom rất gần với các tiếng Khamti và Shan, thường được đặt vào ngữ hệ Thái.

4) Paul K. Benedict (1975) "Austro-Thai, Language and Culture - with a glossary of roots" NXB New Haven (Connecticut, Mỹ). Nhà Ngôn Ngữ học Mỹ Benedict nổi tiếng về các công trình phục nguyên tiếng cổ Hán-Tạng, Tạng-Miến và đề nghị họ ngôn ngữ Austro-Tai (Nam Thái).

5) Chữ kê 雞 鷄 (thanh mẫu kiến 見 vận mẫu tề 齊 bình thanh,  khai khẩu tứ đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

古兮切 cổ hề thiết (TVGT, ĐV) - QV/TV ghi bình thanh

堅奚切 kiên hề thiết (TV, VH, LT)

結兮切 kết hề thiết (NT, TTTH)

古奚切 cổ hề thiết (QV, NT, TTTH)

古兮反 cổ hề phản (LKTG)

TNAV ghi vận bộ 齊微 tề vi (dương bình)

CV ghi cùng vần/bình thanh 雞 稽 乩 枅 笄 羈 䩭 羇 奇 觭 畸 踦 倚 𢽽 剞 掎 饑 肌 𩨒 機 鐖 刏 禨 幾 譏 磯 鞿 耭 璣 蟣 嘰 姬朞 期 祺 基 棋 箕 旗 其 居 萁 錤 踑 諆 (kê ki cơ kì cư)

堅溪切, 音稽 kiên khê thiết, âm kê (CV) ...v.v....

Giọng BK bây giờ là jī so với giọng Quảng Đông gai1 và các giọng Mân Nam 客家话:[沙头角腔] gai1 [客英字典] gai1 ge1 [海陆丰腔] gai1 [梅县腔] gai1 ke.1 [宝安腔] gai1 [台湾四县腔] kie1 gai1 [客语拼音字汇] gai1 gie1 [东莞腔] gai1 潮州话:goi1, giọng Mân Nam/Đài Loan ke1, tiếng Nhật kei và tiếng Hàn kyey. Từ các dữ kiện trên, một dạng cổ phục nguyên của kê có thể là *kei, rất khác biệt với các dạng âm cổ của Dậu!

6) Dậu tiếng Nhật là (hiragana) tori とり (còn có nghĩa là chim)

7) circadian rhythm (tạm dịch: nhịp sinh học) còn gọi là chu kỳ ngủ/thức (sleep/wake cycle) hay đồng hồ cơ thể (body clock) là chu kỳ tự nhiên và có sẵn trong cơ thể chúng ta từ ngày ra đời. Nhịp sinh học khiến chúng ta buồn ngủ hay tỉnh táo mỗi ngày: thường thì buồn ngủ nhất từ khoảng 1 giờ đến 3 giờ chiều và từ 2 giờ đến 4 giờ sáng. Có lẽ đây là nguyên nhân sâu xa khiến các vụ trộm cắp vào nhà xẩy ra vào khoảng gần sáng, hay các vụ tấn công/lùng bắt tội phạm cũng thường được thi hành vào thời gian này. Nếu chúng ta cứ theo thói tự nhiên của mình mà đi ngủ hay thức dậy thì nhịp sinh học sẽ không bị rối loạn và gây hậu quả không tốt! Có rất nhiều tài liệu đa dạng và nghiên cứu về nhịp sinh học, như thông tin trên mạng https://www.nigms.nih.gov/Education/Pages/Factsheet_CircadianRhythms.aspx ...v.v...

8) Tsuyoshi Shimmura, Takashi Yoshimura (2013) "Circadian clock determines the timing of rooster crowing" (tạm dịch/NCT đồng hồ sinh học xác định thời điểm gà trống gáy) - Nagoya University. Bạn đọc có thể xem toàn bài trang này  http://www.cell.com/current-biology/abstract/S0960-9822%2813%2900186-3. Trong một chuỗi thí nghiệm, hai nhà nghiên cứu Nhật Shimmura và Yoshimura để 3 nhóm (mỗi nhóm/bầy gồm 4 con gà) trong các phòng cách âm (soundproof). Trong các phòng này, cường độ ánh sáng và âm thanh có thể thay đổi tùy thí nghiệm. Trong thí nghiệm đầu tiên, phòng có 12 giờ ánh sánh mờ (dim light) và 12 giờ có ánh sáng bình thường (normal light) trong vòng bốn tuần; kết quả: tất cả con gà đều bắt đầu gáy hai giờ trước khi có ánh sáng bình thường. Điều này phù hợp với kinh nghiệm dân gian về lúc gà gáy là thường vào trước buổi sáng (predawn). Thí nghiệm thứ nhì chỉ cho ánh sáng mờ suốt 24 giờ: các con gà vẫn gáy theo đúng giờ như trước. Điều này cho thấy loài gà có một đồng hồ sinh học (trong cơ thể) không tùy thuộc vào môi trường bên ngoài (ánh sáng). Thí nghiệm thứ ba bao gồm ánh sáng bình thường và thêm tiếng ồn vào, các con gà vẫn gáy gần theo chu kỳ bình thường (trước buổi sáng). Các nhà nghiên cứu trên cũng trình làng báo cáo khoa học (2015) "The highest-ranking rooster has priority to announce the break of dawn" (tạm dịch/NCT Gà với ‘địa vị’ cao nhất trong cộng đồng/đàn (gà) có ưu tiên gáy trước) - bạn đọc có thể xem toàn bài trang này http://www.nature.com/articles/srep11683. Ba nhóm gà được đặt trong ba phòng cách âm và cường độ ánh sáng có thể thay đổi, kết quả cho thấy gà có vị thế cao nhất trong bầy có ưu tiên gáy trước, sau đó là các con gà ‘thuộc cấp’. Điều này cho thấy "đẳng cấp" trong một đàn gà (cộng đồng) thật là quan trọng và có thể làm nhịp sinh học thay đổi, tương tự như ảnh hưởng của "trật tự xã hội" con người. Các yếu tố khác có thể thay đổi nhịp sinh học là ánh sáng và nhiệt độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 20231)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 13032)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8676)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5650)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 18502)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3609)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7359)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 19518)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13587)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4644)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]