Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Tập Làm Thơ Haiku

29/03/201318:17(Xem: 7695)
Tôi Tập Làm Thơ Haiku

chu khong


Tôi Tập Làm Thơ Haiku

Thiên Hương


Hôm trước, một người bạn gửi một bài thơ Hai-ku, thấy hay hay tôi cũng bắt chước làm vài câu…

Sáng sớm ngày đầu thu

Tiếng chim non đầu nhà lảnh lót

Cho chiếc lá vàng rơi.....


Mưa sao lại hắt hiu

Trời sao chợt dâng mây ủ rũ

Buồn ngỡ hết lại đầy


Ơ kìa nắng đã lên

Leo lắt chút niềm vui chợt đến

Đời như lại hồng lên...

(03/04/05)


Viết xong, gật gù khoái chí, thấy tự hào lắm. Nhưng khi bạn tôi đọc, cô ấy bảo, chưa đạt được tinh thần Haiku… Tức quá, vào web searched những bài về Haiku…

Về hình thức thì Haiku gồm 3 câu và 17 âm, không phải 17 chữ, chia làm 5,7,5.[1]

Xem lại mấy câu thơ của mình. 5, 7, 5 … . 5, 7, 5 … rồi lại 5, 7, 5 có gì sai trái đâu, sao lại bảo chưa phải là thơ Haiku nhỉ….

Lại đọc tiếp:

“Haiku không phải là một phim bộ dài dòng mà là một tấm ảnh chụp lấy một khoảng khắc, một trừu tượng, một tư duy, nên nhiều khi vài chữ cũng đủ.“ 1

Lại xem lại bài thơ, có chụp lấy
một khoảng khắc, một trừu tượng, một tư duy đấy. Thế thì tại sao….

"Trên cành khô

Chim quạ đậu

Chiều tàn mùa thu" [2]

Trong bài thơ của Basho, ba câu, mười chữ, một cảnh mùa thu, một chiếc cành khô, một con quạ đậu, một buổi chiều tàn… Chỉ vỏn vẹn mười chữ, nhưng vẫn là thơ, vẫn đủ gợi lên được hình ảnh lặng lẽ, khô khan và buồn bã của những ngày thu héo hắt sắp bước vào mùa đông buồn thảm…

Đọc lại bài thơ của mình, chín câu, ba mươi sáu chữ mà cũng chỉ vẽ lên được một buổi sáng thu với chút nắng hồng lên… Thừa chữ mà thiếu hồn, hình như vậy, nói đúng hơn, chắc chắn là vậy, vì lạm dụng ngôn từ, vì hình ảnh nghèo nàn, buồn nhỉ…

Người bạn góp ý sửa lại câu thơ….

“Sáng đầu thu

Tiếng chim non đầu nhà

Chiếc lá vàng rơi.....”


Chỉ ngắn gọn thế thôi, thế là đủ cho một buổi sáng thu, có cả tiếng chim ca, cả chiếc lá lìa cành….

Người bạn lại bảo…

Làm haiku là làm vài câu ngắn ngủi, nguệch ngoạc vài nét không cần chú trọng đến vần điệu, cấu trúc, chủ yếu là ghi lại vision, về sự vật/sự việc một cách hiện thực, đơn giản, "as is", không mô tả cảm xúc (do đó không dùng tĩnh từ và trạng từ), không mô tả quá khứ và vị lai của sự vật/việc, nhìn ngay lúc đó nó như thế nào thì mô tả lại nhu thế “Tả” chứ không “diễn tả”

Dùng những từ thật đơn giản dễ hiểu, không dùng metaphor (ẩn dụ ?) . Đề tài của haiku thường là thiên nhiên và những mùa trong năm, thí dụ tả mùa xuân hạ thu đông, không dùng chữ xuân hạ thu đông trong bài, nhưng được quyền dùng hình ảnh hoa anh đào, ve sầu, lá vàng, tuyết. Giống như một rock garden vay, những tảng đá lớn nhỏ xếp theo hình thể gì, tạo cho người thưởng ngoạn cảm tưởng nghe một thác nước đổ, ngắm một rừng lá thông phủ kín mặt đất, v.v..”[3]

Trở lại internet, chính nghĩa của Haiku cũng chỉ là để diễn đạt…

Chữ "hai" trong "haiku" là chữ "bài" Hán Việt có nghĩa là trình bày, diễn đạt; "bài ưu" trong tiếng Hán Việt nghĩa là "phường tuồng", và người Nhật đọc là "haiyu" dùng để chỉ các diễn viên kịch nghệ hay điện ảnh. Chữ "ku" là chữ "cú" Hán Việt, nghĩa là "câu nói/viết". "Haiku" như vậy có nghĩa là "câu nói/viết để trình bày, diễn đạt”…

Fu ru i ke ya - Trong ao xưa

Ka e ru to bi ko mu - Con ếch nhảy vào

Mi zu no o to - Tiếng nước khua” [4]

Ba câu, mười từ…. một ao nước, một tiếng nước khua do chú cóc tạo nên…

Chỉ cô đọng trong vài chữ, cảnh vật đã được diễn tả đầy đủ.

Nhưng có phải thơ vẫn là như thế, không cần dông dài mà luôn đủ ý khi diễn tả cảnh vật.

Thụy Khê cũng nóiThơ là thể cô đọng nhất của văn chương. Theo Jakobson: thi ca là một phát ngôn nhắm vào thể cách phát biểu (un énoncé visant l'expression). Do đó, chúng ta có thể coi thơ như một sự kết tinh trong cách biểu đạt tư tưởng bằng ngôn từ.[5].

Nhưng nếu chỉ để diễn tả, đâu cần phải mượn đến Haiku, thơ Việt nam mình cũng nhiều bài hay lắm chứ, rất cô đọng mượt mà, vẫn dồi dào xúc tích như những bài Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan….

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
[6]

Các bài Cảnh Thu của Bà Huyện, ba chùm thơ Thu ẩm, Thu Điếu, Thu Vịnh của Nguyễn khuyến; Gió Thu của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, v.v… cũng vẽ nên những cảnh thu man mác trong vài câu thơ ngắn gọn. Xem thơ như đứng trước những bức tranh tuyệt bích vờn chải lại được hết cái hồn thơ man mác của mùa thu… Những hạt mưa lất phất trên những tàu tiêu, trên cây cổ thụ với biển sóng trắng xoá (BHTQ). Một chiếc ao con, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo, những chiếc lá vàng bay vèo trong gió (NK) . Tiếng lá khô xào xạc, con nai vàng ngơ ngác (LTL).

Về Xuân thì Xuân Ý của Huy Cận cũng nhẹ nhàng mà đủ ý….

Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn

Cây chen ánh nguyệt trải vờn bóng xanh [7]


Hay Ông Đồ Già của Nguyễn Đình Liên cũng vẽ lên đuợc một ngày xuân với một ông đồ già dưới cơn mưa bụi bay.

Vậy thì đâu cần phải Haiku, khi cần diễn đạt cảnh sắc, các thơ tự do, thơ thất ngôn, lục bát, v.v của Việt nam … vẫn hoàn thành nhiệm vụ diễn đạt thật tuyệt vời và xuất sắc. Thơ Haiku gọn quá, ngắn quá nên không gợi nên những rung động sâu thẳm như những lời thơ của Xuân Diệu, hay những lời nhạc của Đoàn Chuẩn Từ Linh qua Thu Quyến Rũ, Lá Đổ Muôn Chiều…

Nhưng như vậy thì tại sao Haiku lại nổi tiếng như thế, và tại sao bây giờ lại nhiều người tìm đến Haiku đến thế….

Cô bạn tôi bảo: “Haiku là một loại thơ thiền, để thực hành thiền dễ dàng nhất. Thiền là một cách giúp tìm sự bình an trong tâm hồn do việc tập nhìn mọi sự việc đơn giản thuần khiết.

Như vậy Haiku nổi tiếng nhờ tính thiền của nó:

"Nhiều chuyện

làm nhớ lại

Hoa anh đào"[8]

Theo Hạ Thanh bài thơ này rất thiền vì đã nêu lên vấn đề vô thường và “nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời.[9]

Trong những tháng ngày hiện tại, học thiền bỗng trở nên một trào lưu sâu rộng. Có lẽ cuộc sống quá phức tạp, quá máy móc, cám dỗ vật chất quá nặng nề, nhu cầu mỗi lúc một nhiều, lại không còn phải lo toan nhiều về miếng cơm manh áo, sự dư thừa về vật chất đưa đến sự thiếu thốn về tâm hồn, và áp lực từ môi trường sống khiến cho con người mệt mỏi hơn, cần xoa dịu về tinh thần nhiều hơn. Và như thế, nhiều người đã tìm đến thiền như tìm một hướng đi để giải thoát…. Và như thế, Haiku trở nên thịnh hành.

Tôi xem lại những câu Haiku của mình…

Nhánh hoa đào sót lại

Nở nụ hồng rạng rỡ nắng mai

Xuân về ngát thinh không

Dao trì xanh ngăn ngắt

Dáng sen bình nhiên nở dịu dàng

Hương thiền dâng chất ngất

Rặng liễu xanh bờ ngõ

Sáo trúc chiều thoảng vút trời cao

Cúc nở vàng bỡ ngỡ

Ngoài hè cành khô rũ

Lửa trong nhà ấm áp tâm can

Đời chợt là sương khói.....

(15/03/05)

Vẫn còn thiếu sót một cái gì đó…. Bài thơ vẫn dư chữ và thiếu ý…. Vẫn không đạt được triết lý Sabi của cái nét đẹp mỹ thuật của thơ Haiku. Nó không có cái “vẻ đẹp tao nhã, u huyền”, cũng không tạo được cái “vẻ đẹp trầm lắng, man mác làm miên man lòng người nhưng không xa cách cuộc đời.” Có phải vì tôi đã sử dụng quá nhiều tính từ, và trạng từ trong những câu thơ của tôi.

Ngồi xuống, thử viết thêm vài câu

Trong đêm đen

Đóa hoa quỳnh đang nở

Sáng long lanh

Sáng sớm nay

Hàng cây khô trụi lá

Chim vẫn hót

Chiều xuống dần

Nắng chợt tắt bên hiên

Sương ướt vai…

(04/04/05)

Vẫn thấy gượng ép thế nào, đọc lại những dòng thơ của bạn tôi ….

tich tac

tiếng đồng hồ trên tường

trong đêm đơn

------------

Căn phòng đêm

ngọn nến lung linh

mùi trầm toả

--------------------

tháng ba

tràng hoa giáng sinh

còn trên

khung cửa xám [10]

Gọn hơn, mà đủ nghĩa hơn. Những chữ thật giản dị mà sao tôi không viết ra được. Tại sao thơ của tôi luôn nặng về ngôn từ, có vẻ chải chuốt nhưng lại rỗng hoác buồn tênh… Tại sao, và tại sao…

Buổi trưa, tôi rời căn phòng làm việc bước ra đường. Những hàng cây đã bắt đầu chớm lá vàng, những cơn gió nhẹ đã bắt đầu thổi những chiếc lá vàng nhỏ xíu. Những chiếc lá xoay xoay, xoay xoay. Nhớ đến những người bạn ở bên kia quả địa cầu đang hớn hở khoe mùa xuân đến. Nhìn những chiếc là vàng rơi, nghĩ tới những ngày sắp đến, ngày đã dần ngắn lại ở xứ Úc này. Tự dưng, lòng thấm thía hai chữ vô thường của tạo hóa. Và tôi chợt hiểu ra tại sao mình chưa thể làm được những bài thơ Haiku đúng nghĩa…

Thơ Haiku, bản chất của nó, như bạn tôi nói “chỉ ghi lại sự vật một cách hiện thực, đơn giản, "as is", không mô tả cảm xúc, không mô tả quá khứ và vị lai của sự vật/việc, nhìn ngay lúc đó nó như thế nào thì mô tả lại nhu thế.“

Thơ của tôi còn dùng quá nhiều tính từ và trạng từ, còn gượng cứng vì tôi đã bỏ cảm xúc của mình vào nhiều quá. Tâm còn quá vọng động, còn quá mải mê trong BẢN NGÃ (self) của mình nên chưa đạt được tính thiền, chưa cảm nhận được hai chữ VÔ THƯỜNG của đời sống. VÔ THƯỜNG tự nó không có gì là buồn hay là vui. Mọi việc đều Tùng duyên khởi. Xuân đi trăm hoa tàn, xuân đến hoa lại nở. Hoa thích ứng theo sự thay đổi của bốn mùa. Tàn hay nở cũng không quá hoan hỷ mà cũng không quá ưu sầu.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai [11]

Hiện tượng hoa tàn, hoa nở được mô tả với “một tâm tư bất động, khách quan, không gán ghép, không đánh giá gì sự vật cả, cho nên thiền sư không dùng trạng từ, cũng không dùng tĩnh từ trong các câu của mình … Chỉ nhìn sự vật biến thiên chứ không bình luận. …

Bốn câu, hai chục chữ, mà đã có tới sáu động từ và không một tĩnh từ hay trạng từ nào cả. Rõ ràng đó là một cách tả chân rất khách quan hơn cả thứ văn thơ hiện thực hiện đại. Phải là một tâm tư tịch nhiên vắng lặng mới có thể dùng được thứ ngôn ngữ có vẻ như lạnh lùng mà lại nên thơ như vậy.” [12]

Trong khi đó, tôi lại nhìn cảnh vật dưới cặp kính màu hồng hay đen tùy theo lúc vui hay buồn. Mô tả cảnh vật luôn như trong mấy câu Kiều của Nguyễn Du

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!

Tâm chưa tịnh nên thơ còn vọng động. Cây đào nở hoa mà mãi run rẩy vì gió đến thì hoa mãi lâu tàn sao được. Tâm còn chưa yên nên thơ còn khúc khuỷu xuống lên với những trạng từ và tính từ…. Lòng còn xao xuyến nên nhìn vật chưa thấy được bản thể thì làm sao tả chân được sự vật.

Chưa nhận ra được tính vô thường của sự vật, chưa xác định được cái thật có, hay nói chung chưa hiểu tường tận được hai từ Như Thị thì làm sao an nhiên tự tại.

Chỉ một chút gió thu lay lắt hay vài chiếc lá vàng vu vơ, hồn đã chùng xuống theo những tiếng thở dài. Chỉ vài hạt mưa cũng làm đôi mắt nâu nhòe nhoẹt nước mắt. Biết đến khi nào vật có hoặc không cũng không làm xao động tâm thức, hoa nở hoặc tàn cũng không làm héo úa thời gian, nước chảy mây trôi cũng không làm tâm hồn dậy sóng…..

Tâm chưa an, nên những vần thơ viết lên chưa thể là Haiku. Lại còn quá gượng ép vay mượn ngôn từ tìm tiếng diễn tả, cái tâm chưa thoát, lòng còn vẩn đục thì thơ thế nào êm ả. Cứ mãi đi tìm bản chất, cứ mãi phân tích hiện tượng nên nẻo thiền càng lúc càng xa diệu vợi.

Nhứt thiết hữu vi pháp,

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ, diệc như điển

Ung trụ Như Thị quán!!! [13]

Hãy quẳng hết ưu tư, quẳng hết những âu lo phiền muộn, nhìn hoa để chỉ thấy hoa, nhìn nắng để chỉ thấy nắng. Nhìn vạn vật với Như thị quán, lòng sẽ an nhiên và như thế liệu tôi có viết nổi vài câu haiku hay không….

Nhắm mắt lại, và thử lần nữa nhé, không biết đã được chưa….

Mưa đã dứt

Người khách trên đuờng

Bước chân đi

Nắng đang lên

Đường phố nở hoa

Chim sẻ hót

Cánh đồng cỏ

Đàn bò tha thẩn

Bướm lượn bay….

và lại nữa…

Trên đài sen

Đức Phật nhìn xuống

Mỉm cười…

Trong bình hoa

Đóa hoa hồng nở

Khói hương bay….

Thiên Hương

Melbourne - 05 / 04 / 05



[1]http://suoinguontamtu.com/bonphuong/baiviet/van/phamdoanh/5_Haiku.htm

[2]Thơ Basho - http://www.quangduc.com/tho/92VithientrongcuaBASHO.html

[3]Minh Lê

[4]http://www.vietnameseinaustralia.com.au/Forum/haiku.asp

[5]http://chimviet.free.fr/tacpham1/cautructho/chuong04.html

[6]Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan

[7]Xuân Ý, Huy Cận

[8]Cánh hoa anh đào muôn thuở - Basho

[9]Vị Thiền Trong Thơ Basho - Hạ Thanh

[10]Minh Lê, 03/04/05

[11]– Cáo Tật Thị Chúng - Thiền sư Mãn Giác. Ngô Tất Tố dịch: Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa cười, Trước mặt việc đi mãi, Trên đầu già đến rồi

[12]Về Một Bài Thơ Thiền Mùa Xuân - Vĩnh Hảo

[13]Bài kệ trong KINH KIM CANG:

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3047)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1402)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 730)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 699)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 894)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1288)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 900)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9017)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 700)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1588)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]