Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“Biển đời trăn trở” của nhà thơ Trần Hậu

13/06/201519:36(Xem: 4912)
“Biển đời trăn trở” của nhà thơ Trần Hậu

  
Nha Tho Tran Hau (4)
“Biển đời trăn trở” của nhà thơ Trần Hậu

 

                        Tôi không quen biết nhà thơ Trần Hậu, chưa được gặp anh một lần nào. Trong một lần vô tình (qua nhạc sĩ Trần Đức Tâm), nhìn thấy và giở trang bìa tập thơ “Biển Đời Trăn Trở” của anh , ngay sáu câu thơ đầu dùng làm  lời tựa trong bài thơ Trăn Trở đã cuốn hút  tôi nhanh chóng. Làm như vậy có lẽ nhà thơ nghĩ rằng thơ là hơi thở, là cuộc sống và là  cung cách của riêng mình, cho nên dùng chính lời thơ ấy để nói lên điều mình muốn nói, thay vì nhờ cậy một ai đó viết lời giối thiệu.  Chính những dòng đó  như chứng minh với  mọi người rằng chân lý Phật đà  luôn hiện hữu quanh ta, trong khổ đau cũng như trong hạnh phúc. Mà dường như điều tưởng nhỏ nhoi ấy ai cũng dễ dàng nhận ra, đôi khi chỉ bằng cảm quan chung quanh, những cảm quan mang tên rất “Như Thị”.(đính kèm  ảnh tập thơ)

 

                       Dòng sông nào khi tìm về với biển

                       Cũng phải qua những khúc khuỷu nông sâu

                       Phải vặn mình chịu đựng những cơn đau

                       Chứa con nước lớn ròng trăn trở

                       Như hạnh phúc vốn đến từ đau khổ

                      Trong cuộc hóa thân nào cũng có nổi đau riêng.

 

                                              (Thay Lời Tựa)

 

                      Nha Tho Tran Hau (3)  Giờ đây người viết mới hiểu tại sao bài thơ Trăn Trở được chính nhà thơ chọn làm tiêu biểu và được người nhạc sĩ thân cận  Trần Đức Tâm ưu ái phổ thành bàn nhạc cùng tên.(đính kèm ảnh nhà thơ Trần Hậu và nhạc sĩ Trần Đức Tâm)

Nha Tho Tran Hau (2)

                        Để bắt đầu từ đó, người đọc như chìm sâu vào cái biển đời trăn trở ấy của Trần Hậu và theo  nhà thơ đi xuyên suốt  mọi khổ sầu vui  sướng với nhiều trạng thái khác nhau, có cả giận hờn man mác lẫn  mạnh mẽ; những chê trách và kể cả lên án một  bóng đen nào đó trong cuộc sống. Nhà thơ dẫn chúng ta đi bằng từng nhịp bước  của 122 bài thơ được rút ta từ  con tim  chan chứa sự từng trải, ma sát  với cuộc đời đến khốc liệt:

 

                         Hay là ta lên tới đỉnh chiêm bao

                        Hay là ta vùi dập ở cõi nào

                        Hay là ta lưng chừng đèo ảo mộng

                        Hay là ta đứng lặng để kêu gào

 

                        Hay là ta qua hai lòng chế độ

                        Còn sống đây lơ lững xác thân thừa

                        Kẻ hiền kẻ ngu trần gian lẫn lộn

                        Ai biết ai tri kỷ với

 

                       Với những khi đụng chạm men đời đắng ngắt ấy, nhà thơ chỉ biết tin và dựa vào một khung trời của cõi thơ, một nơi yên bình nhất của riêng mình:

                       

                        Chì có một điều lòng ta luôn hẹn

                        Bay về Thơ cõi ấy rất tinh khôi

                       Ở cõi ấy cái tình luôn bổi hổi

                       Chẳng tính toan hơn thiệt của đời thường

                       Ơi oan nghiệt! Đời thường là chân lý

                       Hay là ta còn nợp những oan khiên..

                                                  (Hay Là Ta)

 

                    
Với bạn bè, với quê hương bản sở, cái tình của những đứa con xa xứ lúc nào cũng đau đáu nỗi khoắc khoải chờ mong, mong khi nhẹ gánh áo cơm về lại chốn xưa nối lại  dây đời truyền thống, huống đây lại là tâm trạng của một nhà thơ thì cái nỗi nhớ mong mong ấy nó  da diết biết  chừng nào!

               

                             Nghe gió bắc thì ngựa Hồ lại hí

                             Thấy Cành Nam Chim Việt vẫn bay về

                             Bao trăng rồi từ độ ta xa quê

                             Nỗi nhớ cứ đầy lên theo ngày tháng…

 

                            Nhớ núi nhớ sông nhớ bạn nhớ bè

                            Nhớ những đêm thơ Vệ Giang Trà Khúc

                           

                            Ơi Quảng Ngãi đứa con xa xin khóc

                            Cũng ví áo cơm đành phải ra đi

                            Mơ một ngày về lại mái nhà xưa

                            Nằm nghe gió nghe mưa trên biển sóng.

                                                           ( Về Quảng Ngãi và Bạn Bè Tôi)

 

                      Trong  nổi niềm  u hoài này, với bạn bè chung quanh, lắm khi nhà thơ  cũng như muốn bật lên tiếng nói làm  ta chợt nhớ đến tiếng nấc của Tô Đông Pha ngày trước, đem nổi buồn của mình  lý giải những  khung trời xa: “Sầu cô quạnh tung trời lên Bắc đẩu/ Dãi Ngân Hà tan tác lá thu bay”. Với  cõi thơ của Trần Hậu ta cũng bắt gặp điều tương tự   khi anh  đứng trước những  bậc thềm  trong tình nghĩa anh em  để rồi thi vị hóa  bản thể của mình của chung quanh:

 

                               Ta từ cái cõi xa xôi

                                Về đây ngồi lại chỗ ngồi năm xưa

\                              Ngồi mà nhớ những đêm mưa

                            Ngồi mà nhớ những sớm trưa đi về

                            Ngồi nghe chim gọi cuối khuya

                            “Bớ thằng chăn vịt” mà chua xót lòng

                            Ta từ phương ấy xa xăm…

                                                  

                                                                (Về Lại Nhà Bạn)

 

                         Cuộc ra đi nào cũng có lằm nguyên do, xa xứ, từ biệt xứ nhuộm nhiều màu sắc, nhưng với nhà thơ cái màu sắc ầy  chỉ có một. Đó là cái chất mạnh mẻ trong từng câu thơ mềm mại trên bất kỳ chất liệu giấy nào ở cõi trần gian:

 

                             Ta đi ôm một bầu nghĩa dũng

                             Khuầy thành men rượu tưới trần gian

                             Còn lại xin mời nầy tri kỷ

                             Nâng chén giang hồ giữa biển trăng..

                                                                  

                                                              ( Ta Đi Đây)

                          Đất Sài gòn  luôn là chân dừng chân của nhiều hoài bảo, dù lớn dù nhỏ hay đó chỉ là một dự định trong cuộc mưu sinh. Sài gòn  không có thơ, sài gòn không có nhiều không gian  ảo mộng huyền  diệu nhưng Sài gòn luôn sòng phẳng với  tất cà những gót chân lưu trú. Và như vậy Sài gòn  là nơi  làm nên đáp án bài thi trắc nghiệm quan trọng nhất  cho từng số phận con người  đi qua nó. Nhìn Sài gón  cũng chính là nhìn  một  cánh của trần gian vừa chợt hé mở:

 

                           Nhớ Sài gòn những đèn xanh đèn đỏ

                           Với ba, tư, năm sáu, bảy, ngả đời

                           Tình yêu cũng chạy theo thời hối hà

                           Còn ngả nào? Sao tôi đứng ngần ngơ.

 

                                                          (Nhớ Sài gòn)

                             Và còn nhiều  trăn trở nữa trong suốt mỗi bài thơ của Trần Hậu. Xếp tập thơ lại rồi  mà vẫn thấy  chơi vơi ngay  trong cuộc sống của mỗi chủng tử  thế  gian này đang còn muốn hé mở nhiều uần khúc.

 

                            
Nha Tho Tran Hau (2) 

Nghe được thêm thông tin hiện giờ nhà thơ Trần Hậu đang sống  những ngày tháng sau cùng với căn bệnh nan y mà lòng  tôi chùng  xuống! Đoạn kết của một  nghiệp đời là cả một biển đời trăn trờ là đây, chất chứa  trong đó vô vàn buồn vui lẫn khóc hận. Nhưng một ý thơ, một  lời thơ của anh vẫn luôn là một lối ứng xử đàng hoàng, tử tế với chung quanh. Trên giường bệnh, nhà thơ Trần Hậu cố gượng dậy  viết lên bảng đen bốn câu thơ cảm ơn nhạc sĩ Trần Đức Tâm sau khi anh được vị nhạc sĩ này mở cho nghe bản demo  bài nhạc Trăn Trở lấy ý thơ của chính mình. Bài nhạc này đã nhanh chóng có mặt trên trang xã hội  you tube (Đính kèm ảnh câu thơ viết trên bảng đen)

Nha Tho Tran Hau (1)

 

                              Xếp lại tập thơ “Biển Đời Trăn Trở” rồi mà vẫn nghe sóng vỗ trong lòng.  Âm thanh tiếng sóng của một kiếp nhân sinh, đi  gần hết cả một đời rồi mới nhìn thấy biển, biển đời! Cũng như tất cả những dòng sông, mang theo  từng thân phận con người mà  đổ ra biển cả, và đối với con nhà Phật chúng ta ai cũng  dễ dàng nhận ra  đó chính là biển khổ mênh mông không hơn không kém.

 

                              Nếu nhà thơ Trần Hậu có đọc được  bài này thì cũng xin được hai chữ hoan hỷ, vì dám  bình phẫm lời thơ anh theo cách suy nghĩ của riêng mình. Và nếu được vậy thì xin được là món quà nhỏ tặng anh- một người chưa quen biết để  có được một thoáng  niềm  an vui  trong tháng ngày chóng chọi với bệnh duyên, nhìn lại cái Biển Đời Trăn Trở của cõi lòng mình.

 

                             Nguyện cầu chư Phật từ thùy gia hộ cho anh.

 

 

                                                                      Sàigòn ngày 13/6/2015

                                                                    DƯƠNG KINH THÀNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3271)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1449)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 783)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 750)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 962)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1358)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 953)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9114)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 762)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1645)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]