Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thanh Lương trên đường về cố quận

25/03/201508:03(Xem: 14264)
Thanh Lương trên đường về cố quận
thanh-luong-tam-nhien



Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên bên dòng sông Cửu Long giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, vốn từ bi, hiếu thảo, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.

Lặng lẽ miệt mài dụng công, âm thầm trao dồi nội tâm theo đường hướng thượng, giải thoát, từ thuở còn thanh xuân. Cho nên sau biến cố năm 1975, dù đang theo học ngành điện tử ở Đại học Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn, Thanh Lương liền vất bỏ hết, ném lại sau lưng những bọt bèo kiến thức, những sự nghiệp phù du, quay về quê nhà ở Cù lao Ông Chưởng. 

 

Một mình cần mẫn cất thảo am giữa cánh đồng hoang vu, cô quạnh, cạnh dòng sông Hậu im lìm, tiếp tục nghiên cứu Phật học và hành thiền miên mật. Thật là hy hữu, mới 20 tuổi, còn quá trẻ trung mà biết áp dụng, thực hành thiền định vào đời sống hằng ngày rồi. Ngồi quán chiếu, nhập thất thường xuyên, hết tháng này sang năm nọ… Trải qua nhiều trạng thái vô phân biệt trí, xuất thần, nhập diệu phiêu diêu :

Hốt nhiên không còn phân chủ khách
Tự nhiên muôn pháp lộ thân trần
Trăng thanh gió mát đều như thị
Trùng trùng duyên khởi tự Pháp thân

Nhân duyên đầy đủ, chí xuất trần quá mạnh nên đến năm 1981, Thanh Lương quyết định xa lìa thảo am, lên đường đi xuất gia ở chùa Bửu Liên, Cần Thơ. Quy y với Hòa thượng Thích Thiện Tâm, một bậc đạo cao đức trọng trong hàng thạch trụ tòng lâm. Từ đó, mở ra một phương trời mây trắng, phong quang không bờ bến, thênh thang qua lại khắp muôn chiều :

Luân lưu trong các nẻo
Giờ tỉnh lại thanh nhàn
Tu là ăn với mặc
Tỉnh tỉnh dứt lầm than

Tuy lòng yên tịnh, tỉnh thức nhưng hành giả vẫn công phu hàm dưỡng, trên những dặm trường cô lữ đó đây. Ngày đêm niệm niệm không rời công án tử sinh, dù ở dưới vùng quê hẻo lánh hay trên thị thành náo nhiệt, phồn hoa. Năm 1983, trên đường du hóa, hành giả dừng chân tạm trú nơi chùa Pháp Vân, Gò Vấp, Sài Gòn, bắt đầu thuyết giảng Phật pháp, thính chúng theo học cũng khá đông. Trong thời kỳ này, hành giả cũng tùy duyên, phương tiện, cũng tham gia các khóa học ngoại điển trong vài ba năm. Tốt nghiệp, lấy bằng Thủ khoa giảng sư Phật học và Cử nhân Anh văn, một cách dễ dàng.

Cưu mang, nung nấu một thời gian dài gần mười năm nghiền ngẫm thâm sâu lý đạo, lẽ đời, rồi đến năm 1993, mới thực sự làm cuộc viễn ly triệt để, biệt từ chốn thành đô hào nhoáng, ồn ào phố hội phù hoa, bồng tênh quảy gió mây trời lên cõi miền hoang vắng tịch liêu trên tuyệt đỉnh Núi Dinh, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, dựng lập Thanh Lương am, làm kẻ độc hành ca giữa thâm sơn cùng cốc :

Chí hướng về trên đỉnh núi cao
Nghìn năm mây vợn chẳng hề xao
Cho dù bão tố từng đưa đẩy
Có chuyển lay đâu một chút nào
Có chuyển lay đâu một chút nào
Tình trần sáu nẻo luống lòng đau
Mong ngày giải thoát cho ba cõi
Đưa chúng sinh qua giấc mộng sầu

Phải chăng đó chính là đại nguyện thiết tha, khiến cho hành giả xả buông tất cả, sau khi đã từng thấy nghe tận mắt, từng chứng kiến biết bao nhiêu chuyện điêu linh, trầm thống, biết bao vô thường, dâu bể tang thương giữa trăm miền huyễn hóa phù sinh. Nhiệt tâm chiêm nghiệm, lặn sâu vào tận bên trong đáy lòng tịch mịch của mình, rồi một chiều bữa nọ, hoát nhiên bừng ngộ một điều chi vi diệu, hành giả lặng lẽ vất hết mọi nhiêu khê thế sự, buông xuống, bỏ lại dưới phố thị kia mọi thứ hư danh, phù phiếm, để đơn thân độc mã, viễn hành ca lên rừng cao núi thẳm, tình tự với mây trời bằng hồn thơ lồng lộng gió trăng phơi :

Trời mây vô niệm đến cùng ta
Trăng gió từ bi vốn của nhà
Vũ trụ bao la lòng quảng đại

Ngàn năm tánh cũ chẳng hề xa

Tánh cũ là Tánh Không, là Tự tánh thanh tịnh vốn sẵn có nơi chính mình. Ai thấy được Tánh Không ấy là sống bồng tênh, nhẹ nhõm, thung dung. Hùng tâm tráng khí, thi gan cùng tuế nguyệt miên trường suốt bao nhiêu năm trời đằng đẵng trôi qua trên đỉnh núi thanh trầm. Thấp thoáng vào ra, lên xuống một hình một bóng người cô đơn, lạnh lẽo, thoạt trông có vẻ như buồn thiu, hiu hắt lắm, nhưng ai có ngờ đâu, kẻ cô liêu ấy, lại vô cùng thong dong, nhàn nhã và thanh thản an nhiên. Tiếng thơ lại vang lên, đồng vọng khắp ba nghìn thế giới giữa mười phương vũ trụ xanh ngần :

Cô đơn lặng lẽ độc hành thân
Tự tại an nhiên bặt dấu trần
Ai sống được tâm không bạn lứa
Khắp trời hiển lộ Pháp vương thân

Pháp thân hay Chân tánh là cố hương vĩnh cửu, là cố quận, quê nhà mà hành giả luôn luôn thao thức tìm phương cách trở về, muốn quy hồi trên cuộc lữ tư tưởng uyên tư. Từ niềm tin tưởng tuyệt đối đó làm động lực cho những bước đi kỳ cùng sáng tạo, vô ngần nhẫn nại, kiên trì, dốc hết ý chí bình sinh đầy linh động, để vượt qua và vượt qua những hố hầm ngã chấp, những truông đèo mê vọng  tối tăm :

Năm qua qua hết vọng mê
Năm nay hiện tại cũng về huyễn thôi
Nghìn năm khắp nẻo luân hồi
Một trường mộng ảo bời bời tỉnh chưa ?
Tỉnh ra mộng chẳng thiếu thừa
Mà nơi huyễn tính thường ưa tu trì
Hỏi rằng ai đó tu chi ?
Tu là tu vậy có gì được đâu
Bình an vốn thật thẳm sâu

Thiền đạo tu tập là tự mình chuyển nghiệp, chuyển hóa tâm thức, làm cho bùng vỡ, tan biến hết mọi ràng buộc, dính mắc vào ngã chấp, vào âm thanh, sắc tướng, những hiện tượng vốn không thật, chỉ là huyễn hóa, giả hợp kia thôi. Với cây tuệ kiếm Kim Cang, hành giả vung lên một nhát mạnh mẽ, chặt đứt những sợi dây mê vọng, hư huyễn, tà kiến ngay lập tức, làm vụt hiện bừng ra nụ cười bình an, thanh thoát thẳm sâu. Sâu thẳm một tâm hồn chan chứa yêu thương, một nguồn thương yêu diệu kỳ, trang trải đại bi tâm tuyệt hảo vô ngần :

Trần thế khó lường ý thật yêu
Yêu người mà chẳng bị người xiêu
Tình yêu chân thật vô năng sở
Yêu thế mới yêu thật mỹ miều

Mỹ miều tuyệt đẹp là tình yêu như thế, một thứ tình yêu vô điều kiện như Krishnamurti : “Có thể yêu thương, nhưng không mắc vướng vào một người nào, vào bất cứ gì. Đó là mức chí thiện của đời sống tình cảm. Phải tách lìa tất cả nhưng cũng vẫn thương yêu tất cả, vì tình thương là sự bừng nở của cuộc sống.” Trên tinh thần vô chấp, khoan dung, độ lượng đó thì mặc tình tùy hỷ, tùy duyên, tùy thuận chúng sinh, thung dung niêm hoa vi tiếu, nhẹ nhàng buông xả và buông xả :

Xả buông hết cả tìm chân đạo
Khai mở trí tâm mới thật mầu
Thấu suốt bản lai đầy ngọc quý
Đạo hằng lưu chuyển dứt lo âu

Khi biết bản lai diện mục là viên ngọc như ý vốn có sẵn trong lòng mình rồi thì còn âu lo, sợ hãi chi nữa ? Mọi thứ phiền não tự nhiên cũng rụng tàn theo mưa ngàn, gió nắng giữa rừng cao lấp lánh, long lanh. Thanh Lương am quanh năm lãng đãng, bàng bạc mây trắng lẫn sương mù, là nơi chốn ẩn cư của một tâm hồn hoằng đại, thâm trầm, một bậc thượng thừa, vừa cao vời như mây núi vừa sâu thẳm như đáy trùng dương, người đã nếm được hương vị cô liêu của cuộc sống :

Vạn sự thanh nhàn có với không
Can chi huyễn mộng chỉ hoài công
Tùy duyên mây nổi theo chiều gió
Nào có chi riêng một tấc lòng
Một tấc lòng sanh lắm đảo điên
Theo chiều suy thịnh khổ triền miên
Hãy xem cho rõ hư không tính
Một niệm dừng sanh giải thoát liền

Khi thấy rõ Tánh Không thì lồng lộng như mây ngàn bát ngát mông mênh, chẳng còn chỗ đi, chẳng còn chốn đến mà ngay đây là đương xứ tức chân, hân hoan cất lên tiếng hát đại hòa điệu chơi trên cung bậc bất nhị, như như :

Mọi sự đều lạc an
Lưu chuyển rất thanh nhàn
Chỉ cần không thắc mắc
Vui thú sẽ vô vàn
Mọi sự đều yêu nhau
Thác đổ tiếng ào ào
Mưa rơi liền ướt tóc
Chẳng hề hỏi vì sao
Mọi sự đều như như
Ban rải tính bi từ
Chỉ lòng không riêng có
Hòa sự sự như như

Như như, như thị, như nhiên, như vậy, như vầy, như thế… Hành giả Thanh Lương trên đường quy hồi cố quận đã từng băng qua nhiều sa mạc hư vô quằn quại, nhiều địa ngục lùng bùng giam nhốt sân si, nhiều cảnh đời tuyệt lộ, khô khan trong cơn túy sinh mộng tử. Băng qua cõi ta bà khủng khiếp, rùng rợn đang đắm chìm trong bóng tối vô minh và một mình đã vượt lên trên tuyệt đỉnh cô phong, đứng chơ vơ giữa ngút ngàn mây trắng, thăng hoa, ngờm ngợp trước huy hoàng càn khôn vũ trụ mênh mông. Lòng bát ngát, rỗng rang nghe chim suối, hoa ngàn hợp tấu bản Vô sự ca thanh thoát, rạt rào :

Bao năm lặng lẽ trôi
Trên đỉnh núi xa bặt dấu trần
Với mây trời quang đãng
Với gió mát trăng trong
Với núi đồi rừng bụi
Lòng quên đi các duyên sự
Lòng quên đi lòng không nương gá
Có không nào quản
Theo ngày tháng nào biết đâu đầu cuối
Chỉ sáng ra trời mọc chiều lại lặn về tây
Chim hót ngọt ngào gió lùa mát rượi
Bỗng mọi sự không còn sai biệt chốn vô tâm
Sự sự vật vật tuôn trào dòng pháp nhũ
Linh diệu thay ! Huyền nhiệm thay !
Ai hay không có đêm ngày luân lưu

Đó là bài thơ Trên đỉnh núi hay là bản nhạc hòa khúc cung cầm nhập hoan hỷ địa của hành giả đã uống được ngụm nước đầu nguồn của mạch sống xanh trong ? Thong dong là niềm vui vô sự, vô tâm.  Cảm hứng làm thơ là bất chợt thôi, còn suốt ngày, hành giả chú tâm nhập thất, thiền định là chính. Thỉnh thoảng cũng làm dịch giả lai rai chơi, vì tâm đắc với Krishnamurti, một bậc đạo sư kỳ vĩ của nhân loại. Những tác phẩm của Krishnamurti đã dịch thuật và được nhà xuất bản Phương Đông ấn hành như :

Đường vào hiện sinh, Tâm thiền, Lửa thiền, Tham thiền vẻ đẹp của tình yêu, Đường bay chim đại bàng, Buổi nói chuyện tại thủ đô Washington Hoa Kỳ 1985.

Ngoài ra cũng dịch thuật và nhà Tôn Giáo đã xuất bản những tác phẩm ưa thích, nói về cảnh giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm :

Thomas Cleary. Nhập bất khả tư nghì cảnh giới.
Francis H. Cook. Lưới trời Đế thích.
Minoru Kiyota. Thiền đại thừa, lý thuyết và thực hành.
Steve Odin. Siêu hình học tiến trình và triết học Phật giáo Hoa Nghiêm tông.
Garma C. C. Chang. Triết học Phật giáo Hoa Nghiêm tông
Nhiều tác giả. Pháp môn Thiền quán theo Hoa Nghiêm tông.
Nhiều tác giả. Nghiên cứu Thiền và Hoa Nghiêm tông.

Đặc biệt, duy nhất một tác phẩm Tham thiền tự cảnh sách văn là của hành giả Thanh Lương viết, trong suốt thời kỳ du sĩ, lặng thầm nhập thất đó đây, từ năm 1976 đến 1996, qua những vùng biển núi xa xôi ở khắp mọi miền : Núi Sập, Long Xuyên, Phú Quốc, Cần Thơ, Sài Gòn, Đồng Nai, Vũng Tàu, Long Hải, Đại Tòng Lâm, Đại Ninh, Đà Lạt… 
 
Tác phẩm này như một tâm bút, bút ký, ghi lại những ý nghĩ thâm trầm, những trải nghiệm sâu thẳm, những kinh nghiệm vi tế, những trạng thái nhập diệu, xuất thần trong quá trình dụng công, công phu hàm dưỡng để thể nhập Tâm Như, tự tánh thường hằng.

Lặng lẽ một nếp sống đạm bạc, thanh bần, làm ẩn sĩ trên núi rừng mông quạnh, chỉ biết tiêu dao, hào sảng với ngàn trăng sương mây gió tự do, hít thở khí trời tự tại, rồi cũng có khi làm một cuộc xuống núi, làm một chuyến phiêu bồng, thõng tay vào phố chợ Sài Gòn. 
 
Có lúc cũng lướt cánh đại bàng vút bay qua bên kia đại dương nước Mỹ, ngao du xứ lạ Hoa Kỳ, theo lời mời của những bằng hữu thâm tình. Có dịp thuận duyên theo bè bạn, đã bước đi khoan thai ở Thái Lan, tham dự, thảo luận tư tưởng Krishnamurti cùng Hiệp hội Krishnamurti, hằng năm thường tổ chức họp mặt ở đó.

Có thể nói, Thanh Lương hành giả là người đã lãnh hội giáo lý Krishnamurti và triết lý Hoa Nghiêm một cách thâm sâu, thấu thị, sâu sắc, qua lời phát biểu tế nhị : “Giáo lý Krishnamurti và Triết học Hoa Nghiêm có điểm giống nhau trên phương diện ứng dụng là sự tự tri, tự giác, quan sát và quán chiếu thực chất hay thực tướng của cuộc đời. Đặc biệt là đời sống tâm thức ta để thấy bản ngã là không thật, như huyễn, để sống trong cuộc sống thực tiễn đầy bất trắc, đau thương mà vẫn được hạnh phúc, thương yêu.”*

Quy hồi cố quận, trên con đường phong quang, ngút ngàn mây trắng bao la, thấp thoáng đóa hoa Đức Phật đưa lên trên tuyệt đỉnh Linh Sơn và Ma Ha Ca Diếp mỉm cười. Nụ cười thiên thu bất diệt ấy bây giờ lại hốt nhiên bừng nở trên tuyệt đỉnh Núi Dinh, một cách nhiệm mầu :

Linh Sơn họp mặt dễ gì đâu
Núi dựng rừng cao hố thẳm sâu
Qua đỉnh ngã nhân liền kiến Phật
Tuyệt thay ! Pháp pháp tại tâm đầu
Tâm đầu tựu đức mới thành viên
Cảnh cảnh tùy tâm mục hiện tiền
Ngăn nắp tùng Không đều chẳng ngại
Viên dung sự lý tánh thường nhiên

Một khi lý sự viên dung được rồi thì thi ca, hội họa, âm nhạc, văn chương hay toàn thể sinh hoạt cuộc đời, toàn thể pháp giới mười phương đều dung thông vô ngại, vô quái ngại trên từng bước đi phóng khoáng giữa muôn chiều diệu dụng thương yêu.

Yêu thương vô lượng vô biên như vầng trăng sáng vằng vặc trên núi đồi cô tịch Thanh Lương am. Cảm nhận một điều chi đơn sơ giản dị, tôi biết cũng gần 30 năm rồi, tôi với hành giả là chỗ giao tình đồng điệu, cùng tương ứng trên bước đi Krishnamurti và Hoa Nghiêm nhịp nhàng tiêu sái. Cõi mộng vân hành, Thanh Lương hành giả đã có lần ra tận ngoài hải đảo xa ngút mù khơi thăm tôi và tôi cũng tìm về Cù lao Ông Chưởng viếng thảo am một bận. 
 
Rồi mỗi năm, vào dịp nghỉ hè hay cuối năm là tôi cùng vài người bạn văn nghệ như Lê Giao Văn, Vũ Anh Sương, Đoàn Sỹ Toàn, Nguyễn Ngọc Tiến rủ nhau kéo lên Núi Dinh, cùng hàn huyên, trà đạo với Thanh Lương am chủ cả ngày, có khi ở lại qua đêm, để thưởng thức rừng khuya tĩnh mịch dưới ngàn sương, trăng gió núi lung linh. Để rồi sớm mai hồng tinh sương hôm sau xuống núi, tôi không quên lưu lại một bài thơ Thanh Lương Am, như gởi gắm một chút tâm tình lung linh bình dị :

Xanh cây lá rừng cao trầm hùng vĩ
Chập chùng lên ghềnh đá tảng đồi hoang
Ẩn hiện triền non ven sườn dốc
Thanh Lương am thấp thoáng giữa sương ngàn
Bay nghi ngút hòa đất trời hợp tấu
Bản Hoa Nghiêm pháp giới khởi trùng trùng
Trùng trùng duyên khởi do tâm tạo
Vô biên tình vô lượng nghĩa viên dung
Đã đi khắp cõi Đông Tây tư tưởng
Về nơi đây lặng lẽ thấy sâu xa
Bỗng nghe Không Lộ gầm sấm sét
Chợt bừng ra vi diệu cái đang là
Hào khí thay ! Một mình trên đỉnh núi
Uống sương sa và thở khói u huyền
Trời mây vô niệm niềm tự tại
Tự do cười mọi sự cứ như nhiên

Tâm Nhiên


Thơ Thanh Lương, trích trong tác phẩm Tham thiền tự cảnh sách văn. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2006

* Minh Mẫn. Danh nhân Văn hóa Phật giáo Việt Nam đương đại. Nhà xuất bản Lao Động, 2007
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2021(Xem: 3951)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
08/11/2021(Xem: 10858)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 12911)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6520)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4563)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2502)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3717)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2640)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6382)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 8722)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]