Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khoảng trống (viết cho người anh đã khuất)

10/01/201507:05(Xem: 17570)
Khoảng trống (viết cho người anh đã khuất)

Phu Du Lao Hien

KHOẢNG TRỐNG

 

Vĩnh Hảo

 

(viết cho người anh đã khuất, đồng thời kính dâng Me,

và thương tặng tất cả anh chị em của tôi)

 

 

Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ.

Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa.

Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai!

Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.

Cuộc sống tất bật áo cơm, việc công, việc tư, cùng với khoảng cách không gian đã chia cách anh chị em chúng tôi bao năm tháng, khó có cơ hội gặp nhau riêng rẽ từng người, nói gì một cuộc đoàn tụ đông đủ. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi còn có nhau. 14 anh chị em trọn vẹn. 14 anh chị em của một cha, một mẹ. 14 anh chị em có tiếng “phong lưu” theo cái nghĩa là văn nghệ; nói chính xác hơn, là những anh chị em đồng nghiệp, nối bước cha mẹ trên con đường văn học nghệ thuật. Từ những bàn viết cách xa nhau, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn còn liên lạc và thưởng thức nhau qua những sáng tác văn thơ đăng báo này báo nọ, hoặc trên những websites, blogs, facebooks…

Gần 30 năm trước, cha chúng tôi ra đi. Tang lễ của ông, anh chị em chúng tôi có người về được, có người không. Tất cả chúng tôi, trong đó có người chị cả ở nước ngoài và hai em trai đang ở tù, đã cùng mẹ chia sẻ nỗi mất mát to lớn lần đầu tiên đến với gia đình. Mẹ ngồi lại nơi căn từ đường suốt những năm dài sau đó, mỗi dịp sinh nhật, đón nhận lời chúc tụng của bầy con 14 đứa cùng với một đàn cháu chắt ở gần, ở xa. Mẹ đã ngoài 90, như ngọn đèn trước gió. Nhưng tâm mẹ thanh thản, hạnh phúc nhìn bầy con 14 đứa vuông tròn, dù trong gian khó vẫn sống an vui, giữ được nhân đức và phong cách của những người nghệ sĩ ôm đàn, cầm cọ, cầm bút. Hơn 70 năm nuôi dạy con cái, cha mẹ đã không để lại gia sản gì cho bầy con ngoài hai chữ “nhân đức,” và năng khiếu văn nghệ ươm trong máu huyết. Anh chị em chúng tôi thật sự vui hưởng gia sản ấy, không kêu ca than vãn gì. Nhưng có thể nói, trong tất cả những đứa con cưng của cha mẹ (đứa nào cha mẹ cũng cưng), đặc biệt chỉ có anh tôi, Vĩnh Hiền—nhà thơ Phù Du, mới đích thực là một nghệ sĩ tài hoa, đúng nghĩa nhất.

Những anh chị em khác, kể cả tôi, cũng viết văn, làm thơ, vẽ, đàn ca… nhưng hầu như trong đời sống cũng như trong biểu đạt nghệ thuật, ai cũng cố gắng gìn giữ nề nếp gia phong và tư cách cá nhân, do ảnh hưởng bởi chức năng nhà giáo, nhà tu, công chức, và trên tất cả: con của cha mẹ, của một gia đình hoàng phái (dù chỉ còn trên danh nghĩa). Không ai trong anh chị em chúng tôi thực sự sống như một nghệ sĩ, mà chỉ là những nhà giáo, những người đạo đức làm văn nghệ.

Vĩnh Hiền đã sống một đời sống đúng mực phong lưu, nghệ sĩ. Hai câu thơ của anh—mà tất cả anh chị em trong nhà, cũng như bằng hữu văn nghệ đều nhớ nằm lòng, có thể nói là châm ngôn, là quan niệm sống (và chết) của chính anh:

“Sống là thơ mộng mà chơi

Chết là nhảy giữa giọng cười hư không.”

Anh không sợ sống với nghèo khổ, gian khó. Anh cũng không sợ đớn đau, không sợ chết. Anh thách thức đời sống, và thách thức cái chết.

Hơn bốn mươi năm làm thơ, viết văn, trải cả tâm can và trí tuệ cho văn thi đàn, để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời. Vẽ tranh, đàn ca, uống rượu, giốc hết chân tình với bằng hữu bốn phương. Đã từng yêu hết mực, và đã từng khổ đau hết mực vì tình yêu. Đã từng xót đau cái khổ chung của quê hương mà múa bút cất lời hiệu triệu để phải trải thân tù tội bao năm. Đã từng một lần trúng số độc đắc, chia sẻ tận cùng với anh chị em và bằng hữu để rồi tiếp tục trắng tay làm nghệ sĩ nghèo. Đã từng vào ra bệnh viện mấy lần, mổ xẻ, đối diện với thần chết vì bệnh nan y. Gã nghệ sĩ ấy, không ai can ngăn được thói phong lưu, bạt mạng. Nhưng ở nơi căn gác xép tồi tàn kia, gã vẫn chu toàn trách nhiệm của người chồng quí vợ, và người cha tận tụy thương yêu chăm sóc con.

Vinh Hien Tam Luong (2)

Một con người như thế, một đời sống như thế, quá phong phú, quá “chịu chơi,” đâu phải ai cũng làm được. Cho nên, 63 năm ở đời của anh, không thể nói là mệnh yểu. Khi một người hạnh phúc với từng giây phút hiện hữu của mình, người ấy không có tuổi; và cuộc đời người ấy khôn thể đo bằng thời gian, năm tháng.

Một chiều đầu năm, anh nằm đọc báo trên chiếc giường xếp, rồi ra đi.

Gia đình không dám báo tin cho mẹ biết, sợ bà buồn lòng, chịu không nổi với tuổi già yếu. Đã hơn 70 năm đếm 14 đứa con đầy đủ gần 3 lần trên bàn tay năm ngón, nay hụt mất đi một đứa, mẹ sẽ đau xót xiết bao! Đứa con nào mẹ cũng thương, nhưng đứa mẹ quan tâm nhất là đứa không chịu nghe lời khuyên của bà: không chịu bớt hút thuốc, không chịu cữ rượu… để giữ gìn sức khoẻ, để sống lâu bên mẹ. Ôi, mẹ ơi, hẳn mẹ cũng biết rằng dù anh ấy không giảm thuốc, cai rượu như lời mẹ dặn, anh ấy cũng thương mẹ vô vàn, như 13 đứa con kia, có khác gì. Nhưng nếu con người nghệ sĩ bạt mạng kia chưa từng hút thuốc uống rượu trước đây, hoặc đã từng mà ngày nay phải ngưng hút thuốc, ngưng thù tạc cốc rượu với bạn bè văn nghệ… e rằng đã không có một cõi thơ bát ngát và một con người nghệ sĩ đích thực trong gia đình chúng ta.

Nếu một lúc nào đó mẹ vô tình đọc đến những giòng này và biết là anh con đã vĩnh viễn ra đi trước khi mẹ trăm tuổi, con xin thay mặt người anh quá cố của con, cũng như thay mặt tất cả anh chị em còn lại, sám hối với mẹ, xin mẹ hãy bình tâm, đừng quá xót lòng. Mẹ hãy cứ an vui và tiễn anh con bằng một bài thơ; và hãy tin rằng sự ra đi của anh con như thế là tốt đẹp, không có gì đáng phải phiền nàn. Anh đã sống hết mình, sống trọn vẹn, cuộc đời của một nghệ sĩ tài hoa, luôn thiếu thốn vật chất nhưng rất giàu có về tinh thần. Anh con đã rất vững vàng khi sống, và hẳn nhiên cũng rất vững vàng, thản nhiên khi chết. Mẹ hãy lau khô nước mắt và đọc thơ cho anh con đi.

 

Riêng tôi, lần đầu tiên trong đời, trải nghiệm nỗi đau mất mát của tình anh em ruột thịt. Ngạn ngữ có nói,“Anh em như thể tay chân.” Tôi xa gia đình từ bé, không cảm nhận được sự gắn bó thiêng liêng ấy như các anh chị em tôi. Chỉ bây giờ, khi nghe tin anh tôi mất, tôi đã im lặng nhiều ngày qua… và quả nhiên, có cảm giác là tay chân tôi tuy còn đây, mà như rụng rời, đứt đoạn. Có một khoảng không, một sự trống rỗng, hụt hẫng nào đó ở trong tôi khi mất đi một người anh ruột, một nhà thơ đã từng gây hứng cảm và mở đường nghệ thuật cho những thành viên trong gia đình, trong đó có tôi.

 

California, ngày 08/01/2015

Vĩnh Hảo


Xem tiếp
Vinh Hien Tam Luong-5

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24764)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9550)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11444)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3680)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5591)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3340)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 11096)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3821)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15337)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3610)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]