Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

- Dấu chân người viễn xứ (HT Như Điển)

07/07/201405:16(Xem: 28675)
- Dấu chân người viễn xứ (HT Như Điển)



Ai trong chúng ta cũng đã có hơn một lần ra đi. Có người đi xa mà cũng có lắm người đi gần, nhưng đi là một điều có thật, thể hiện của một trong bốn động tác của sự đi, đứng, nằm và ngồi. Trong bốn động tác nầy có lẽ nằm thuộc động tác chiếm nhiều thời gian nhất, ít ra cũng 8 tiếng đồng hồ trong mỗi ngày. Còn đi, đứng và ngồi thì sao? Nếu chia cho cả ba động tác trên ra đều nhau thì mỗi loại cũng chiếm đến 8 tiếng đồng hồ, nhưng mấy ai thực hiện việc nầy được đều đặn như vậy. Có thể động tác nầy nhiều hay ít hơn động tác kia hoặc ngược lại động tác kia ít hơn động tác nầy. Nằm và ngồi cũng như đứng đều ở thể tĩnh, nghĩa là không di chuyển, còn đi là động tác luôn chuyển động. Nếu tính thời gian một năm là 365 ngày, mỗi ngày đi 8 tiếng đồng hồ, thì mỗi năm có số giờ đi là: 365x8=2.920 giờ. Cứ thế mà nhân lên cho số tuổi tác thì chúng ta sẽ biết được đã đi bao nhiêu giờ và bao nhiêu cây số trên đoạn đường sinh tử của mình rồi.

Ở đây không phải làm thống kê cho một cuộc lữ hành, nhưng trong cuộc sống nầy có mấy ai quan tâm về việc nầy. Vì đa phần chúng ta đều quan niệm rằng: Hãy để cho thời gian đến và đi tự nhiên như những gì là tự chính nó, đâu phải cần quan tâm đến làm gì. Tuy nhiên, nếu đứng về phương diện toán học cũng như phân tích học thì người ta cũng nên làm việc ấy để thử nghiệm về bản tâm của mỗi người. Vì chính thời gian là thước đo chính xác về tự thân của mỗi con người của chúng ta vậy.

Có những chuyến lữ hành không định hướng, nhưng rồi cũng phải trôi giạt đến một bến bờ nào đó; cũng có lắm chuyến đi không đến được đích, bởi không gian và thời gian chi phối. Do vậy mà có nhiều người thành công và cũng có lắm kẻ thất bại. Tất cả đều do nhân quả nhiều đời và nghiệp lực của mỗi người bị chi phối bởi tự thân của chính mình, chứ tuyệt nhiên không có ai có thể chi phối chúng ta bằng tự nghiệp lực của chính mình cả. Kể từ trước và sau năm 1975 đã có không biết bao nhiêu chuyến ra đi như vậy. Có người thành công và cũng có nhiều người không may đã ra người thiên cổ. Điều nầy chẳng ai mong muốn, nhưng đó là một sự thật. Cũng nhờ những chuyến ra đi như thế, vì hoàn cảnh nầy hay hoàn cảnh khác mà ngày nay người Việt chúng ta có mặt khắp năm châu bốn bể trên quả địa cầu nầy. Được biết có gần ba triệu người như thế. Cũng đã có nhiều người đã nằm xuống và cũng có nhiều trẻ thơ đã sinh ra, tiếp tục con đường mà ông bà, cha mẹ đã cưu mang từ những thế hệ trước. Đây chính là sự truyền thừa, nối tiếp việc truyền tử lưu tôn ấy. Phật Giáo cũng kế tục con đường nầy, nhưng không phải là con đường truyền tử lưu tôn, mà là con đường kế thế khai lai, báo Phật ân đức. Chính vì cái nầy có nên cái kia phải có; cái nầy sinh nên cái khác phải sinh; cái nầy diệt nên cái khác phải diệt. Trong cái còn, có cái mất và trong cái mất lại có cái còn. Nhưng phàm cái gì có hình tướng đều phải chịu sự chi phối bởi vô thường, mà đã là vô thường thì căn bản của nó là khổ. Căn bản của khổ, do không, huân tập mà thành. Không ấy chính là vô ngã. Chỉ vì con người bị vô minh dẫn dắt nên mới mãi bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi của đoạn đường sanh tử. Nếu chúng ta biết dừng, thì mọi vật sẽ đổi hướng. Thiện hay bất thiện, tất cả đều chính do chúng ta quyết định cả.

Tôi đã có nhân duyên qua lại trên quả địa cầu nầy bằng đường hàng không chắc cũng đã hơn một triệu cây số rồi. Trong những chuyến bay đêm, rồi những chuyến bay ngày quanh quả địa cầu nầy, tôi đã nhiều lần dừng chân tại Úc Châu. Một xứ sở mà mọi người ai cũng muốn đến thăm một lần cho biết. Vì ở đó có rất nhiều điều mà con người cần phải làm quen. Tôi quen và biết mặt không biết bao nhiêu người để có thể kể cho hết hay viết cho cùng, nhưng tôi lại có duyên với Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne kể từ khi Thượng Tọa Thích Tâm Phương mới có mặt tại đây. Chắc cũng không dưới 20 năm. Trong hơn 20 năm ấy có biết bao nhiêu vật đổi sao dời, có biết bao nhiêu điều phải nói đến. Hai mươi năm là một chuỗi thời gian tuy ngắn với một thế kỷ, nhưng rất dài đối với một kiếp nhân sinh. Từ ngôi chùa nhỏ, đổi qua ngôi trường học. Rồi từ trường học biến thành chánh điện của một ngôi chùa. Rồi Tăng xá, trai đường, bảo tháp v.v... tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà thành tựu.

Nhân lễ Khánh Thành Tu Viện Quảng Đức vào tháng 10 năm 2003, tôi có để ý đến một tu sĩ đọc bản dịch sang tiếng Anh phần lược dịch chương trình hành lễ cũng như diễn văn khai mạc lễ khánh thành. Sau buổi lễ Thầy Tâm Phương giới thiệu cho tôi biết rằng đó là Thầy Nguyên Tạng, bào đệ của Thầy ấy. Tôi rất vui, vì thấy trong một gia đình có đến 3 người đi xuất gia (kể cả Sư Cô Tâm Vân, trụ trì Chùa Thiên Long, Sài Gòn). Tôi nhìn thấy một tương lai sẽ rạng rỡ ở xứ Úc. Vì sẽ có nhiều người trẻ giỏi giang như Thầy Nguyên Tạng và có khả năng nói trôi chảy ngoại ngữ như vậy sẽ dễ hội nhập và phát triển tại xứ Úc nầy. Từ đó tôi cũng vui lây và làm quen với Thầy Nguyên Tạng kể từ lúc nào không biết. Từ những việc viết lời giới thiệu sách của Thầy ấy dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, rồi những chuyến hoằng pháp tại Hoa Kỳ, Canada hay Âu châu... Dù ở đâu, tôi cũng được Thầy trợ duyên ở nhiều phương diện khác nhau. Rồi trang nhà Quảng Đức cũng chính là nơi giao lưu nhiều vấn đề về việc đăng tải thông tin cùng bài vở, để rồi tôi hay liên lạc thường xuyên với Thầy Nguyên Tạng hơn.

Mùa An Cư Kiết Hạ kỳ thứ 15 của Giáo Hội Úc Châu năm 2014 nầy được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức. Nhân việc chư Tôn Đức Tăng Ni câu hội về đây để kiết giới trường, một buổi lễ chính thức tấn phong Đệ Nhị Trụ Trì TV Quảng Đức cho Thầy Nguyên Tạng qua sự tin tưởng của Thượng Tọa Thích Tâm Phương, là một dấu mốc lịch sử của Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne nói riêng cũng như nước Úc nói chung. Điều nầy đã đánh dấu một chặng đường đi gian khổ suốt hơn 20 năm qua, nhưng Thầy Tâm Phương đã có người nghiêng vai đỡ lấy gánh nặng ấy. Quả là điều hữu phước. Vì cũng có nhiều bậc Tôn Túc khi lớn tuổi cũng muốn có người trao truyền, nhưng kẻ sẵn sàng nghiêng vai ra gánh vác thì không có. Phước báu nầy có được, xin chia sẻ niềm vui hoằng pháp nơi xứ người của Thượng Tọa Tâm Phương.

Ở Úc Châu, Đại Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ, Hội Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan và Hòa Thượng Thích Bảo Lạc cũng đã thực hiện việc trao truyền cho Đệ Tử lo việc Trụ Trì đã từ nhiều năm nay. Đây là những hình ảnh đẹp. Vì tre tàn thì măng mọc. Điều ấy hẳn vui, khi có người trẻ đứng ra lo việc kế thừa.

Tôi không đến Úc được trong dịp nầy để dự lễ tấn phong Thầy Nguyên Tạng lên làm Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne để chung vui cùng hai Thầy, nhưng tôi vẫn dõi theo bước chân di của người con Việt ở mọi nơi khi có những sự kiện hy hữu như thế nầy. Vì lẽ không phải ai cũng có thể làm được, nếu người ấy không tự lãnh trách nhiệm về cho chính mình.

Từ năm 1979 đến nay đã hơn 35 năm như thế. Tuy tôi không ở lại Úc dài lâu, nhưng xứ Úc vẫn là nơi chốn để tôi hướng về mỗi khi có một sự kiện trọng đại nào. Xin chắp hai tay lại để cầu nguyện cho đại sự nầy được thành tựu và xin nguyện cầu cho mùa An Cư của Giáo Hội tại Úc Châu được thành tựu viên mãn.

Viết xong tại chùa Tam Bảo Na Uy nhân ngày vía Đức Phổ Hiền Bồ Tát 21.2. năm Giáp Ngọ nhằm ngày 21.3.2014.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4387)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3437)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4151)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10983)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10873)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3191)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5131)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3495)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3565)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3345)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]