Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. Hương đạo bay xa (Chí Thâm)

17/06/201408:09(Xem: 20229)
45. Hương đạo bay xa (Chí Thâm)

 Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi.

 Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.

 Sau đó thì bố mẹ tìm đủ cách cho tôi được xuất ngoại trước là tự cứu mình, sau cứu cả gia đình, may mắn là tôi thoát thật. Có điều nơi xứ lạ quê người, lăn lóc bươn chải, tứ cố vô thân, trăm ngàn gian nan khổ cực, thời gian đâu và có ai đâu chỉ bảo cho tôi con đường tu học, con đường của cả một tương lai an lạc, hạnh phúc tuyệt vời.

 Như đã nói trên, tôi hoàn toàn là một kẻ phàm phu tục tử lại “bị“ sinh ra trong một gia đình khá giả, từ nhỏ được cha mẹ chiều chuộng, anh chị em nhường nhịn, đến trường được bạn bè, thầy cô nể nang vì tôi học hành cũng không đến nỗi nào. Người đời cho đó là hồng phúc ư? Thật là một lầm lẫn to lớn, những kẻ có hoàn cảnh như tôi (không dám nói là toàn bộ mà có lẽ là đa số) đều mắc chứng bệnh cao ngạo, bản ngã rất nặng, nói theo nhà Phật là Tăng thượng mạn trầm trọng, tự cho mình là quan trọng, dễ dàng sinh lòng đố kỵ, ganh ghét khi có ai hay, giỏi hơn mình.

 

 Từ khi sống một mình ở nước ngoài, người thương chẳng còn ai che chở, bênh vực, khen ngợi, học thức trở thành vô dụng, căn bệnh tự ti mặc cảm lẫn đố kỵ của tôi có mức độ gia tăng khốc liệt.

 Tôi đi làm đủ thứ việc và chẳng bao giờ vừa lòng với bất cứ chỗ nào. Vì luôn cho mình là giỏi giang, con nhà có học thế nên có ai nói động đến một chút thôi là tôi bắt đầu khó chịu, tôi ghét người đó và muốn tất cả những người xung quanh cũng phải ghét người đó theo. Tôi bực bội vì đồng nghiệp được chủ thương mến, tin cậy, tôi bất mãn vì cho rằng đồng lương không xứng đáng với công việc mà mình đang làm.

 Cứ loanh quanh hết bất mãn lại bực tức, lại khó chịu, bất bình, ganh tị, con người như tôi thử hỏi thất nghiệp kinh niên cũng chẳng có gì là lạ. Rồi tôi gặp Thầy, đây mới là vấn đề trọng đại mấu chốt của câu chuyện chính cuộc đời còn lại của tôi.

 

 Kinh Phật có nói về năm thứ chướng ngại của một con người trên con đường tu học đi đến giác ngộ đó là: tài, sắc, danh, thực, thùy. Tôi xin được bắt đầu từ chữ đầu tiên về câu chuyện tôi và Thầy.

 ● Tài: Tôi chẳng hề có óc cầu tiến, ham học. Ra ngoại quốc, nhà nước cũng tạo điều kiện cho những thuyền nhân tội nghiệp như tôi được đi học không tốn tiền (thậm chí còn cho thêm tiền ấy chứ!) để có thể hội nhập vào xứ sở họ, dễ dàng kiếm được công ăn việc làm, ổn định đời sống. Nhưng tôi ôm tập vào lớp chỉ có mục đích hiện diện để có tiền, chữ nghĩa vào tai này ra tai kia sạch bách.

 Tôi lại lý sự rằng học làm gì ở cái xứ không biết trọng nhân tài ngoại quốc này, học cho lắm cũng thất nghiệp thôi. Thế là tôi thản nhiên sống qua ngày với đồng tiền trợ cấp. Ấy vậy mà ai thử nói cái gì đó từa tựa như là tôi bất tài hay tôi dốt nát thử xem, họ sẽ biết tay tôi ngay.

 Thế rồi một ngày mưa bão, trong số đám bạn xôi thịt của tôi có một gã hết lời ca ngợi rằng ở xứ này có một vị Sư người Việt Nam rất giỏi, có TÀI lãnh đạo đại chúng, có TÀI thuyết pháp trôi chảy, có TÀI đọc thông, viết thạo và nói lưu loát mấy thứ tiếng. Tôi nghe mà bắt đầu thấy nóng mặt, chối cả tai, con quỷ ganh tị tật đố nhảy nhót trong lòng dẫn dắt tôi vào những ý nghĩ đen tối. Đời tôi cho đến lúc đầu hai thứ tóc chưa thấy có người nào nói mà thiên hạ chịu im lặng trân trọng lắng nghe (trừ phi bị bắt buộc). Lý sự giỏi như tôi mà mỗi lần mở miệng nói chưa đến năm câu bị thiên hạ cãi hết ba rồi nữa mà. Nửa tin nửa ngờ (nhưng mà ngờ nhiều hơn), sẵn đang thất nghiệp, tôi chịu đi theo thằng bạn mà tôi cho là tâng bốc ông Thầy thái quá.

 Đó là một buổi lễ lớn, gã bạn rón rén bước vào Chánh điện, cung cung kính kính ngồi xếp bằng lắng nghe Thầy giảng Pháp. Tôi lảng vảng bên ngoài quan sát Thầy, chẳng biết ông có hay tôi đang nhìn với cả tấm lòng… ganh tị hay không? Vì gã bạn nói đúng, hàng hàng lớp lớp Phật tử ngồi kia tất cả đều yên lặng lắng nghe Thầy với sự kính trọng. Tôi thầm nghĩ: trong số mấy bà ngồi đấy, hẳn là đến một nửa thuộc loại lắm mồm ở nhà là lý sự, cãi chồng như ranh, mắng con ra rả. Ái chà chà! Đến đây thì ông Thầy này làm tiêu hết mấy cái nọc sư tử và hình như họ đều biến thành nai cả rồi hay sao ấy?

 Thầy giảng từ tốn, mạch lạc, giọng nói ấm áp, rất có sức thuyết phục đại chúng, trừ tôi. Vì tôi đâu có tâm trí lắng nghe như họ, trong lòng tôi chỉ toàn sóng gió cuồn cuộn của sự ganh tức. Sao chẳng bao giờ có ai tự nguyện nghe tôi trừ phi tôi phải làm cái gì đó có lợi cho họ? Tôi chẳng phải là người cũng có chút tài vặt như sửa bóng điện nhà, đóng giường, tủ, bàn, ghế đấy ư? Nhưng mà nghĩ đi nghĩ lại mấy cái tài của Thầy hiện hữu rõ ràng mà tôi thì hoàn toàn không có chứ đừng nói đến việc so sánh ai hơn ai.

 Tôi đang trong thời kỳ rảnh rỗi, ăn không ngồi rồi mà, thế là tôi quyết định điều tra mấy cái “tài“ khác của Thầy. Quả thật ông có dịch kinh từ chữ Hán ra Việt, ông viết sách bằng tiếng Đức, ông nói chuyện với người ngoại quốc bằng tiếng Anh, ông đã từng du học tại Nhật. Cứ thử tưởng tượng trong số các thính chúng ngồi dưới nghe Pháp, vô tình có ai đó người ngoại quốc, có ai đó gốc Trung Hoa, có ai đó tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ của họ, đột nhiên họ nghe hiểu được một câu tiếng Anh, tiếng Tàu hay tiếng Đức của Thầy chắc lòng họ vui vẻ, hân hoan lắm.

 Khổ nỗi tôi đang không ưa Thầy nên một hai quả quyết là ông khoe tài chứ chẳng có gì khác. Thay vì nghĩ rằng ông mến trọng người có tài để họ có thể giúp ích gánh vác được trách nhiệm cứu nhân độ thế, tôi lại khăng khăng đổ riệt cho ông thích bằng cấp, khinh thường người ít học. Tôi quên mất là bia đá Văn Miếu ở Hà Nội ghi tên ai, phải chăng là toàn các ông tiến sĩ? Tôi không nhìn thấy công việc hoằng pháp của Thầy, tài học của Thầy được đem ra để phục vụ cho tất cả các tầng lớp chúng sinh chứ nào đâu có riêng các vị có bằng tiến sĩ?

 ● Sắc: Chẳng ai đi bảo đàn ông phải cần có sắc đẹp bao giờ, nhưng ngoại hình đôi khi cũng không phải là không quan trọng đâu đấy. Hai người cùng có năng lực như nhau xin vào cùng một công ty, chắc chắn họ sẽ tìm người nào dễ nhìn, dung mạo tươi tắn hơn là kẻ mặt khó đăm đăm, vừa xấu, vừa có vẻ cau có dễ ghét. Ngày xửa ngày xưa, tuổi thanh xuân tôi chẳng thuộc loại xấu tuy không thể nói là đẹp như minh tinh màn bạc được. Tôi lại chụp hình khá ăn ảnh đấy nhé! Thế mà bây giờ tuổi tôi đâu kém gì ông thầy kia nhưng Thầy thì đi đến chỗ nào, người ta xúm lại đòi chụp chung với Thầy một tấm ảnh làm kỷ niệm, cứ y như là họ đang đứng cạnh tài tử Thành Long hay Tom Cruise không bằng, hay là chụp xong rồi đi mua vé số trúng ngay độc đắc? Nhìn thấy tôi đã xốn ngay cả mắt rồi. Thì cũng công nhận là Thầy cũng “có nét“, phong thái uy nghi đạo mạo, khuôn mặt phúc hậu, sáng rỡ, tươi nhuận, có vẻ dễ gần, thân thiện. Ông đi đến đâu cũng có người ủng hộ, còn tôi đi đến đâu chẳng biết ma nó có thấy tôi không chứ người thì lờ tăng tít, bảo sao tôi không tức phát điên lên được.

 Tôi rình rập xem ông có nói chuyện lâu thân tình với một cô gái trẻ đẹp nào không? Tôi bươi móc ra mấy tấm ảnh ông chụp chung với mấy bà từ hàng… U6 trở lên để công kích ông, thâm tâm lấy làm hả dạ lắm.

 Chẳng hiểu tại sao mặc dù không thích tiếp xúc, gần gũi với Thầy, tôi vẫn có cảm xúc lạ lùng rằng mỗi lần nhìn thấy ông, một sự an lành, thanh thản từ ông tỏa ra lan rộng xung quanh. Nhưng con quỷ tật đố ganh ghét trong tôi một hai tìm đủ cách phá vỡ đi sự an lạc ấy, để rồi tôi lại trở về với bản tính cố hữu: nhỏ mọn và đầy ác ý, tìm mọi sơ hở của Thầy để rêu rao, tôi kéo đồng minh, đồng chí, đồng rận cùng lên án ông thầy.

 

 ● Danh: Cái này thì thật sự từ ngày xuất ngoại, tôi chẳng có “danh gì với núi sông“. Học không hay, cày lại dở, thêm chứng bệnh gàn kinh niên thế thì còn nước nôi gì nữa. May mà bố mẹ tôi có đông con chứ trông chờ hết ở nơi tôi thì chắc thất vọng mà chết. Tôi dở nhưng luôn chuẩn bị cả một kho tàng tốt đẹp vinh quang của quá khứ của thời trai trẻ để hù thiên hạ. Ai khoe họ có cái gì, quá khứ tôi nhất định cũng có. Họ khoe con cái, tôi lôi cháu chắt của dòng họ phi thuyền đi mãi không đến để huyênh hoang.

 Anh em bà con có gì tốt mới nói, xấu xa thì tôi giấu biệt đi. Ấy thế mà ai thử động đến gia đình dòng họ tôi thử xem, tôi sẽ biến ngay thành một “ông kẹ“ chồm lên cho họ một bài học thất kinh hồn vía ngay. Còn những đồng hương thành danh ở nước ngoài ư? Tôi chẳng có chút nào hãnh diện lây mà toàn tìm những lỗi lầm, sơ sót của họ để hạ danh dự xuống hoặc cho rằng sự thành công ấy là do may mắn mà thôi. Chưa kể cái tật lâu lâu lại dè bĩu người Việt Nam nào là bê bối, mất trật tự, ăn cắp vặt làm mất mặt quốc gia. Tôi thản nhiên “vơ cả nắm đũa“ mà quên bẵng mất mình là người gì, được sinh ra và lớn lên ở đâu?

 Trong tình cảnh ấy, ông thầy cũng chẳng được tôi xem là ngoại lệ mặc dù tư cách của ông chẳng có điểm nào để phê phán. Ông là người có học, có học hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thầy rất tự trọng trong mọi hoàn cảnh dù là ở thời sinh viên nghèo mạt hay lúc ban sơ gầy dựng ngôi chùa thuộc hàng lớn nhất nhì Châu Âu, gặp bao nhiêu gian nan trắc trở đến não lòng. Ấy thế mà tôi một hai vẫn khăng khăng cho là ông may mắn mà thôi. Nếu có ai vặn lại rằng đổi tôi là Thầy, tôi có làm được như vậy không? Tôi mắc bệnh gàn và cố chấp sẵn mà đương nhiên là sẽ trả lời: Cũng “có thể“ được. Tôi quên rằng nội cái chuyện cạo đầu, ăn chay, rời bỏ gia đình đến chết tôi cũng chẳng làm được chứ đừng nói đến những cái to tát khác.

 Thật ra tâm tôi cũng có phục chút chút cái danh có thực (chứ không phải “hữu danh vô thực“) của Thầy. Ông phát triển nền Phật giáo Việt Nam tại xứ người, gầy dựng, giúp đỡ những đạo tràng non yếu, đào tạo Tăng tài. Tiền vào tay ông chẳng bao lâu lại vào những việc Phật sự to tát, những việc từ thiện, những việc phát triển văn hóa. Ông cũng chỉ có mấy bộ nâu sòng, ngày ăn hai bữa cơm rau đạm bạc. Những việc bình thường, giản dị và cao quý của Thầy tôi chẳng thèm để ý mà chỉ rình mò những dịp lễ lạc thấy Thầy dù ăn chay nhưng “có vẻ“ yến tiệc linh đình, quần áo sang trọng, mũ mão tích trượng, Phật tử lăng xăng phục vụ, chụp hình, chụp ảnh, bao nhiêu đó làm tôi sôi gan lộn tiết lên rồi. Ma vương Ba Tuần giao cho tôi nhiệm vụ quan trọng làm điệp viên “không không thấy“ tìm mọi cách để công kích, hạ bệ cái danh của Thầy.

 Than ôi! Nếu Thầy chỉ là một vị Sư bình thường nơi một ngôi chùa hẻo lánh lèo tèo vài ba Phật tử thì chắc tôi thành công lâu rồi. Đằng này số người kính trọng, ủng hộ Thầy lên đến mấy ngàn người, chẳng lẽ tất cả bọn họ đều u mê tăm tối bị mua chuộc hết cả hay sao? Bàn tay đen tối của tôi làm sao che được cả mặt trời chói lọi trên kia?

 Gã bạn có lần khuyên tôi: “Người nào coi cái ngã của mình quá nặng thì thường tự hại mình và dễ bị người làm hại. Bậc chân tu diệt được ngã thì càng tấn công họ càng được phúc, kẻ hãm hại họ như gió đánh vào nhà trống mà thôi“.

 

 ● Thực: Đến vấn đề này mới là sự khác biệt lớn giữa tôi và Thầy. Tôi chưa bao giờ chứng kiến những ngày cơm rau đạm bạc của Thầy mà chỉ chằm chằm chú ý vào những dịp Phật tử trịnh trọng bày ra hết món này đến món nọ để dâng Thầy. Còn tôi thì lủi thủi cô quạnh, tự lo lấy miếng ăn, nấu một bữa ăn làm ba bốn bữa. Chẳng biết có ma nào ngó ngàng đến không chứ người hả? Hãy đợi đấy! Có tiền họa may có người phục vụ. Sự chênh lệch ấy làm tôi tức tối không yên, tôi không hề nghĩ đến việc Thầy đã làm được gì cho đại chúng, còn tôi làm được gì?

 Tôi mà giúp ai chuyện rất nhỏ thôi cũng nhớ rất dai, người “bị“ tôi giúp không tỏ thái độ, hành động đáp lễ thì tôi bực lắm, kết án ngay đó là kẻ vô ơn bạc nghĩa, thế nào cũng chẳng có hậu vận tốt đâu. Còn ai mà nhờ tôi chuyện gì ấy hả? Phải xem có ảnh hưởng đến tiền bạc hay sức khỏe của tôi không cái đã. Chưa kể là khi tôi nấu món gì đó đãi ai mà thâm tâm mong họ khen gãy lưỡi mới chịu, họ mà có ý kiến ý cò là tôi bực mình lắm chẳng cần tìm hiểu xem họ khen thật hay chê thật mà làm gì. Còn tôi mà đi ăn ấy hả? Phải là đúng cái này với cái kia, không hợp “gu“ của tôi thì đừng hòng tôi ăn, chưa kể là tôi góp ý chê người ta thẳng tay chẳng để ý gì đến tấm lòng hay công nấu ăn vất vả của người ta.

 “Nghe đồn“ Thầy thích nhất là ăn cơm rau luộc nhưng ai nấu gì mời Thầy vẫn hoan hỷ dù biết rằng nhìn món đó có vẻ đẹp mắt nhưng gia vị toàn những thứ có hại cho tim, gan, phèo, phổi nghiêm trọng, Thầy cũng không phụ lòng người nấu. Bao nhiêu đó tôi đã khác ông quá nhiều rồi, hình như chuyện này tôi “thông minh“ hơn ông thì phải?

 

 ● Thùy: Vấn đề cuối cùng này đã chắc chắn hơn Thầy rồi. Bởi vì tôi muốn ngủ và thức bất kỳ lúc nào mà tôi… có thể. Mấy chục năm thất nghiệp dài dài, thời gian ngủ và nghỉ hình như hơi nhiều. Tôi đâu có cực khổ, ngày ngày phải dậy từ bốn năm giờ sáng niệm Phật, đọc chú như Thầy. Tôi cũng chẳng phải gian nan đi sớm đến muộn hết đạo tràng này đến Niệm Phật đường nọ từ Âu sang Á, sang Mỹ, qua Úc để làm Phật sự, hoằng pháp lợi sanh như Thầy. Ấy vậy mà tôi vẫn ganh tị, hậm hực cho rằng Thầy “thích du lịch“ cơ đấy. Còn tôi thì vì ăn tiền xã hội chẳng dám đi đâu.

 Gã bạn có lần cũng đăng ký đi “hành hương“ trong phái đoàn của Thầy, hắn kể về những gian nan trèo non lội suối thăm các điển tích Phật giáo, Thầy đã giảng giải tỉ mỉ để các Phật tử có thêm hiểu biết, có tín tâm tu học để có một hậu vận an lành.

 Thầy đi đến đâu nếu có người cúng dường Thầy thì Thầy lại cúng dường những nơi nào cần thiết khác. Tôi nghe nhưng vẫn thờ ơ, tâm, khẩu, ý của tôi dành hết thì giờ để tìm cách công kích, phá đám, hạ bệ ông thầy này bằng được mà thôi. Thầy không ngủ và nghỉ nhiều như tôi nhưng lạ thay ông chẳng có bệnh hoạn gì, còn tôi thì thường xuyên đau đầu, mất ngủ, ác mộng, bệnh gì hình như cũng có.

 Có lẽ đó là “thành quả“ mà tôi đạt được sau bao năm ra sức rình rập, châm biếm, phá phách Thầy thì phải.

 Một sự hoảng sợ vu vơ, một khoảng không đen tối mênh mông tràn ngập tâm hồn, tôi cố chống cự, cố né tránh, cố tìm đủ mọi lý lẽ biện hộ cho các việc làm mà tôi cho là chính đáng nhưng tâm tôi vẫn không bình thản được, đời tôi chẳng khá hơn ai. Những cơn ác mộng thì cứ lặp đi lặp lại và có mức độ gia tăng chứ không giảm bớt. Thầy thì lúc nào cũng an nhiên tự tại, vui tươi, còn tôi thỉnh thoảng nhìn mình trong gương thấy thần sắc đen tối lạ thường.

 Có lần tôi đọc ở đâu đó trên mạng, mang máng có ai viết cái gì đó đại loại như là: “Người mà mang trong lòng nhiều ưu sầu, lo lắng, ganh ghét, tật đố, soi mói, tự cao, tự đại, không bao giờ biết tự nhận lỗi mình, kẻ đó lúc nào trên khuôn mặt cũng có sắc hắc ám, đen tối làm chó mèo cũng sợ không dám đến gần chứ đừng nói là con người. Tôi chẳng nuôi nổi bản thân tôi chứ đừng nói đến nuôi… mèo. Nhưng tôi cảm thấy đôi lúc người ta cũng có lý bởi vì cho đến bây giờ nói thật tình tôi chẳng có lấy một người bạn tri kỷ.

 

 Sau một lần ốm nặng mê man mất cả tuần, một lần đủ cho tôi có thời gian bình tĩnh suy nghĩ lại cẩn thận tất cả những gì mình đã xử sự trong đời với người thân, kẻ sơ và nhất là đối với Thầy. Tôi nghĩ rằng nếu ông là tôi chắc sẽ oán hận, ghét bỏ kẻ mà chống phá mình dai dẳng như thế lắm. Thế rồi, trời xui đất khiến gã bạn ngày xưa chuyên môn ủng hộ Thầy lại đến thăm đúng lúc tôi đang sống dở, chết dở. Sau dăm ba câu thăm hỏi xã giao thường tình, tôi buột miệng hỏi gã:

 - Tôi công kích ông thầy đó bao lâu nay chắc là ông ta ghét tôi lắm?

 Hắn nhìn tôi từ tốn nói:

 - Tôi có gặp Thầy, chuyện về anh, Thầy biết tất cả, bao năm qua anh làm gì với Thầy, hẳn anh tự mình cũng biết rõ hơn ai cả. Nhưng mà…

 - Sao hả? Tôi hồi hộp hỏi tới.

 - Thầy nói rằng ông không phải là thánh cũng vẫn là phàm nhân mới đang trên đường diệt ngã, đi học đạo của thánh nên đương nhiên cũng có lỗi lầm.

 - Hả? Tôi ngơ ngác tưởng mình nghe lầm - Ông ta tự nhận thế à?

 Gã bạn nhìn tôi thương hại:

 - Dĩ nhiên rồi! Tôi là Phật tử quyết không nói lời thêu dệt. Thầy còn nói nếu ai “có thiện tâm“ góp ý, Thầy nhất định nhìn nhận, sửa chữa và còn cảm ơn họ nữa kìa.

 Tôi thở dài:

 - Nhưng tôi thì có ác tâm, ác ý, ác khẩu với Thầy, nếu tôi có mệnh hệ gì chắc Thầy không đến cúng cho tôi đâu.

 Gã bạn an ủi:

 - Đừng lo! Thầy có nói chuyện với tôi về anh. Thầy bảo là rất tội nghiệp, thương xót anh. Chỉ vì anh không biết nên mới làm những việc như vậy, chứ biết rồi còn nói làm gì nữa. Thật ra bao năm nay, cơn bão giận dữ, phá phách của anh như đi vào khoảng không bao la rộng rãi. Tâm Thầy là như vậy, có chứa gì đâu mà giận anh?

 

 Tôi quay mặt đi giả vờ lục lọi tìm cái gì đó trong tủ để gã bạn đừng nhìn thấy là tôi đang rơi nước mắt.

 

Chí Thâm

2014.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11179)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8136)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5077)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16807)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3484)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6631)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18233)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13040)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4420)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12539)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]