Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Có chút gì để nhớ (Trần Thị Nhật Hưng)

17/06/201403:54(Xem: 21670)
15. Có chút gì để nhớ (Trần Thị Nhật Hưng)

blank
Phải viết lúc người đó còn sinh tiền mới đọc được„. Đó là ý nghĩ của tôi chợt lóe lên sau khi tôi viết bài “Cơn Dông Giữa Mùa Hạ„ tưởng niệm Hòa Thượng Khánh Anh viên tịch cùng đọc vô số bài viết nhắc nhớ bao kỷ niệm thân thương về Hòa Thượng mà Hòa Thượng không đọc được, tôi cứ tức anh ách sao đó. Rồi trí óc tôi lướt nhanh sẽ viết và nên viết về ai có nhân duyên, kỷ niệm đẹp với tôi và nhất là người đó có cuộc sống hữu ích cho tôi kính trọng, quí mến, thì người mà tôi nghĩ đến, sau Hòa Thượng Khánh Anh, chính là Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển.

Vâng, tôi muốn viết về Thầy, không phải tôi là “văn nô„ (danh từ ngồ ngộ nghe rất vui tai mà có lần ai đó gán cho tôi). Văn nô theo tôi hiểu, chỉ… chúi đầu làm nô lệ tâng bốc không dựa vào cơ sở nào và đương nhiên để nhận lại danh lợi từ người đó.

Danh lợi ư? Bao lâu, dễ chừng có tới 25 năm, tôi cộng tác với báo Viên Giác của Hòa Thượng, như một Phật tử làm công quả cho chùa, tôi không hề nhận đồng nhuận bút nào, trong khi viết cho Phụ Nữ Diễn Đàn bên Mỹ, cứ một trang tôi có 20 US đô la (một bài 5 trang, nhận 100 US ngon ơ!). Còn danh (nếu có), không phải Hòa Thượng cho tôi, mà chính do ĐỘC GIẢ đánh giá. Tôi viết bài, nếu độc giả hài lòng, chấp nhận thì cho tôi một vài lời khen lên tinh thần, nếu dở thì chính tôi bôi lọ tôi. Danh lợi tôi hiểu như thế đó.

Hôm nay tôi viết về Thầy, những mong “Có Chút Gì Để Nhớ„ đánh dấu những kỷ niệm giữa tôi và Thầy mà tôi cho là cái “Duyên„ mong Thầy đọc được trước khi Thầy về cõi Phật, để tôi khỏi phải… tức anh ách như cảm giác sau khi viết về Hòa Thượng Khánh Anh.

Thuở bé, từng là Oanh Vũ trong Gia Đình Phật Tử, thế mà lớn lên, không hiểu sao, tôi không thích đi chùa, càng không thích tụng kinh, thế mà giờ, tôi trở thành Phật tử mà là Phật tử thuần thành nữa mới lạ.

Không lạ đâu, đạo Phật luôn cho rằng mọi sự đều do NHÂN DUYÊN từ cái này sinh ra cái kia, thì chính văn chương, văn nghệ là con đường dẫn lối tôi trở về lại với chùa, với Phật.

Tôi còn nhớ rõ lắm, nguyên do nào tôi đến với Viên Giác. Bắt đầu bằng chính báo Viên Giác do một người bạn đưa cho. Đọc rồi cũng để qua nhưng hai chữ "Viên Giác" tự lúc nào không biết đã in sâu vào tâm khảm tôi. Cho đến một ngày (năm 1989) nhân lễ kỷ niệm 10 năm tỵ nạn tại Thụy Sĩ do người Thụy Sĩ tổ chức. Ngày thứ bảy giới thiệu văn hóa mỗi nước thể hiện qua các màn vũ, hát, đám cưới... Ngày chủ nhật dành cho sinh hoạt giới thiệu các tôn giáo.

Ngồi ở đàng ghế xa xa, hội trường có sức chứa hai ngàn người, một anh bạn nói với tôi:

- Vị Thầy khuôn mặt tròn tròn ngồi giữa hai Thầy ốm ốm là Thầy Như Điển đó.

Tôi đưa mắt nhìn theo rồi tìm một phong bì nhỏ, đặt một số tịnh tài kèm tên và địa chỉ của tôi đích thân đến trao Thầy. Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt cùng Thầy. Và cũng sau lần đó, tôi nhận báo dài dài. Đọc không chưa đủ, tôi gởi những bài viết, tuy chỉ lai rai nhưng cũng đủ cho tôi dần dà với thời gian thắt chặt tình thân cùng Viên Giác.

Lần thứ hai tôi gặp lại Thầy nhân dịp lễ Phật Đản tổ chức tại Bern (thủ đô Thụy Sĩ). Bài thuyết giảng của Thầy hôm đó như trăm ngàn các bài thuyết giảng của các vị Thầy khác nhưng chính tiểu tiết rất nhỏ, nhỏ nhưng rất quan trọng đối với tôi, vừa thuyết giảng thỉnh thoảng Thầy liếc mắt nhìn đồng hồ canh giờ, đến và đi chính xác, không chậm trễ phút nào đã khiến tôi chú ý. Tôi nhủ thầm: "Đây là vị Thầy làm việc rất nguyên tắc" mà tôi thì luôn tôn trọng những gì có nguyên tắc, nhất là nguyên tắc đó đặt đúng vị trí của nó.

Điều tôi suy đoán quả không sai. Thầy Như Điển chẳng những là người rất nguyên tắc mà còn có óc tổ chức, làm việc có kế hoạch có phương pháp rõ ràng. Điều đó thể hiện trong buổi lễ Phật Đản lần đầu tiên tôi có dịp tham dự nhân lúc Thầy triệu tập những cây bút có tác phẩm ra mắt do chùa Viên Giác xuất bản (trong đó có tác phẩm "Giấc Mơ Xưa" của tôi) ngay tại chùa Viên Giác.

Hôm đó, với một chương trình san sát liên tiếp ba ngày: thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật; Thầy không để sơ sót, chậm trễ một tiết mục nào suốt từ 6 giờ sáng đến 24 giờ khuya. Đó là tôi chưa nói đến còn lồng thêm một chương trình văn nghệ cổ truyền thật đặc sắc, thật công phu huy động từ toàn thể các anh chị em Gia Đình Phật Tử trên nước Đức. Tinh thần làm việc vừa hăng say vừa trách nhiệm như vậy đã nói lên được khả năng điều động tài tình của người lãnh đạo tài ba, biết phối hợp nguyên tắc tổ chức của Tây phương để giới thiệu cái hay, nét đẹp của văn hóa Đông phương, còn gì tuyệt bằng. Từ đó tôi bị lôi cuốn theo sinh hoạt của chùa Viên Giác, đương nhiên dõi theo luôn bước chân của người chủ nhiệm báo Viên Giác, đó là Thầy!

Đạo Phật còn có câu “trước dùng dục câu dắt, sau dùng trí để nhổ„. Đúng vậy, văn chương, văn nghệ đã… câu dắt tôi đến chùa, để từ đó tâm trí tôi mở ra cho tôi thấy được những điều quí Thầy làm khiến cho tôi ngày càng kính trọng. Vậy tôi… thấy những gì, đó là câu hỏi, xin trả lời ngay trong bài viết này.

Tuy đã biết và quen với Thầy, nghĩ Thầy là minh sư đạo cao đức trọng, tôi muốn được học hỏi, nhưng Thụy Sĩ xa xôi, tôi chỉ gặp được Thầy một năm một lần trong những khóa Tu Học Âu Châu. Rất muốn lại gần Thầy để hỏi vài câu, nhưng tôi để ý, Thầy rất “kỵ„ phụ nữ, gặp tôi, Thầy chỉ hỏi thăm qua loa rồi biến nhanh để tôi… ngơ ngẩn nhìn theo, muốn… níu áo hỏi thêm vài câu mà không được (đụng áo cũng bị cấm ở đó mà níu!). Biết ý rồi, tôi không… quấy rầy Thầy làm gì! Tôi giữ ý cho Thầy và cả cho tôi nữa!

Thế nhưng nhân duyên vẫn đưa đẩy tôi gặp Thầy trong những dịp hành hương như đi Tích Lan, lần đó không chỉ cho tôi chứng kiến lễ lãnh giải danh dự do chính phủ Tích Lan và Hội Đồng Tăng Già Tích Lan trao tặng Thầy cùng Hòa Thượng Khánh Anh, người có công phát triển Phật giáo tại trời Tây mà những kỷ niệm vụn vặt cũng làm tôi khó quên. Trong bàn ăn dài nơi phòng khánh tiết khách sạn dành cho 20 người, Thầy ngồi đầu bàn chủ tọa, tôi và Hoa Lan, cô bạn văn (hai cô này mà nhập lại thì cấp số “quậy„ tăng theo cấp số nhân). Cả hai rủ nhau ngồi chót cuối bàn càng xa… mặt trời (Thầy) càng tốt để được tự do cựa quậy, thế nhưng, dưới bầu trời quang đãng chạy đâu cho khỏi nắng nên “ánh sáng„ chiếu rọi cho thấy chỗ chúng tôi đang thiếu chuối và mít. Thầy cầm hai dĩa chuối, mít lên tiếng: “Chuyền xuống bên dưới đi!„ Tôi cảm động lắm về sự quan tâm của Thầy, tiếc là tôi và Hoa Lan… thiếu phước nên dĩa trái cây mới đi đến nửa đường thì… gãy gánh! Đúng là “nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định!

Dịp khác, tình cờ “không hẹn mà gặp„ đó là dịp tôi cùng gia đình người bạn hành hương xứ Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Gặp Thầy tại Trung Tâm Tu Học Viên Giác, nhưng lúc tôi vừa đến lại là ngày cuối Thầy sắp đi. Tuy chỉ một ngày ngắn ngủi cũng đủ cho tôi thấy tấm lòng sốt sắng của Thầy lo cho đàn hậu học. Hôm đó khá đông Tăng Ni sinh tụ hội, mới có cũ có. Cũ là những vị đang nhận trợ cấp học bổng của Thầy, mới là những người tới mong được Thầy hỗ trợ. Cứ hằng năm, Thầy lại ghé thăm, khảo sát việc học bằng cách tổ chức buổi hội thảo, cho đề tài để các Tăng Ni sinh thuyết trình, và khích lệ bảo ban để Tăng Ni sinh có tinh thần học tập. Thầy có nói với tôi: “Kệ, ai cần, tôi cũng giúp cả. Không phân biệt Trung-Nam-Bắc. Chị thấy đó, trong số Tăng Ni sinh du học đương nhiên cũng có hạt chắc hạt lép thôi. Chỉ cần vài hạt chắc, Phật giáo mình cũng đủ phát triển„ Tôi thực sự cảm kích tấm lòng quảng đại và tầm nhìn chiến lược của Thầy.

blank

Rồi hơn 5 tháng sau đó, một lần nữa, tôi lại có nhân duyên gặp lại Thầy, trong cùng một chuyến bay qua Ấn Độ để tham dự lễ phát bằng Tiến sĩ của 5 học Tăng. Tôi được mời với tư cách “chứng nhân„ viết bài tường thuật (muốn biết chi tiết xin đọc bài “Có Một Thế Giới Lạ„ Viên Giác số 189). Còn Thầy, đương nhiên như cha già, Đại Ân Nhân mà các học Tăng muốn tri ân. Không chỉ lời cảm tạ của tân khoa hôm đó, Đại Đức Thích Như Tú và Đại Đức Thích Nguyên Tân phát biểu cảm tưởng tại buổi tiệc do Hòa Thượng khao đãi mừng ngày vui tốt nghiệp, mà nhiều học Tăng nghe tin Thầy sang đã đến cung kính đảnh lễ, đã tâm sự cùng tôi, nhiều lúc chới với vì thiếu tài chánh tưởng bỏ học thì may sao có Hòa Thượng đưa tay ra đỡ!

Họ nói với lòng cảm kích sâu đậm, chân thành, càng khiến tôi cảm phục Thầy hơn. Như thế chưa đâu, có những sự việc nhỏ nhặt nhưng đầy tình thương Thầy dành cho Học Tăng Ấn Độ, chẳng hạn biết nơi đó không có gia vị Việt Nam, (Ấn Độ chỉ toàn cà ri nị khó nuốt lắm), Thầy đã chẳng nệ hà, không kể mỗi người đã có bao lì xì, Thầy còn xách qua 85 chai xì dầu nhỏ dự định tặng mỗi vị một chai, tiếc là hành lý có giới hạn nên cuối cùng mang theo phân nửa để “hai người chung một chai, chia sao tùy ý„. Sự chăm sóc tiểu tiết đó nhưng chứa chan bao tình thương lo cho đàn hậu học, lo cho mạch sống của Phật giáo mong được trường tồn, vững mạnh, khỏi hổ thẹn với tiền nhân. Thầy quí sự học, vì luôn cho rằng: “Sự học không phải là con đường giải thoát. Nhưng muốn giải thoát, không thể thiếu tu và thiếu… học!„ Có lẽ vậy mà Thầy luôn vun bồi và trọng bằng cấp chăng. Nhưng không phải có bằng cấp mới được ăn… xì dầu, mà ngay lúc quay trở về Đức, Thầy lại mang không biết bao mít, chuối, khổ qua, mướp… làm quà cho Phật tử bên Đức, cho chùa Viên Giác.

Đấy, những điều tôi thấy, tôi nghe… như thế có đủ cho tôi nhận ra cái giá trị của tờ giấy trắng hơn là cái chấm đen?! Con người vốn không ai toàn hảo “nhân vô thập toàn“. Toàn hảo như Đức Phật mà vẫn có người chê trách, không hài lòng. Thì cái chấm đen đối với tôi quá nhỏ không thiệt hại gì quá đáng cho tờ giấy, mà nếu khéo léo, có thể nhẹ nhàng… xóa được bằng một nét bút ngang qua nó, hơn là chỉ ngồi chăm bẳm nhắm vào đó mà... nguyền rủa chấm đen! Do đó, nếu tôi có bị cho là “văn nô„ tôi vẫn vui vẻ mong được làm…văn nô để viết lên những cảm xúc trung thực chân thành phát xuất tận đáy lòng tôi, để vinh danh cái hay nét đẹp của đời, của đạo. Chứ viết trái ý để ăn tiền thì thật tôi không quen.

Ngày nay, không chỉ riêng tôi, mà nhiều Phật Tử Đức quốc nói riêng và Âu Châu nói chung biết và hiểu đến đạo, trở thành những Phật tử thuần thành sống theo giáo pháp của Đấng Từ Phụ để cuộc sống an lạc hơn thì phải nghĩ do đâu nếu không là công lao của Thầy, một trong những Cao Tăng của Âu Châu hết dạ hết lòng hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sinh.

Mai đây đánh dấu 50 năm xuất gia của Thầy, một chặng đường dài rong ruổi, cho dù đã 65 tuổi đời, cái tuổi về hưu cần ngơi nghỉ mà cứ đọc chương trình sinh hoạt hằng năm của chùa Viên Giác, tôi đã phải giựt mình trước sức làm việc miệt mài không ngưng nghỉ của Thầy cho Phật giáo. Tôi không khỏi cúi đầu khâm phục nguyện vui vẻ làm… “văn nô“ cho Thầy hôm nay và mãi mãi!

Kính nguyện Thầy luôn dồi dào sức khỏe để tiếp nối hành trình mà Thầy đang theo đuổi, và trên tờ giấy trắng, con được viết lên, ghi lại những kỷ niệm mà trên đường trần con có duyên gặp Thầy.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trần Thị Nhật Hưng 2014
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11177)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8136)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5077)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16807)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3484)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6631)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18230)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13038)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4419)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12537)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]