Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Nhớ ngày đầu gặp gỡ (Thiện Nguyện Bảo Chí)

17/06/201407:52(Xem: 19481)
33. Nhớ ngày đầu gặp gỡ (Thiện Nguyện Bảo Chí)

Tháng 7 năm 1983, tôi và gia đình bình yên đến được bến bờ tự do, chúng tôi tri ân nước Ý, đã đón nhận gia đình tôi và sớm giúp đỡ chúng tôi hội nhập vào cuộc sống mới, dù gì thì dân Ý vẫn nghèo khi so với các nước láng giềng như Pháp, Đức hay Thụy Sĩ. Chỉ có mỗi một điều, tuy họ nghèo về kinh tế thật nhưng lại rất giàu lòng thương người. Ở đây, không phải “lá lành đùm lá rách“ mà là “lá rách đùm lá nát“ hơn...

Trong lịch sử vớt người Việt Nam tỵ nạn trên biển đông, ngoài các chiến hạm của Mỹ thì chỉ nước Ý là nước duy nhất trên thế giới đã dùng đến quân đội. Vào năm 1978 chính phủ Ý đã gởi nguyên một hạm đội thuộc hải quân Ý với các chiến hạm STROMBOLI, VITTORIO VENETO, ANDREA DORIA, trên tàu có bịnh viện điều trị, có sân bay cho máy bay trực thăng đi tải thương và kiếm người trên biển cả. Ngày nay tên của những chiến thuyền này đã in sâu vào tâm khảm của những thuyền nhân tại Ý. Đây chính là điều làm gia đình chúng tôi quyết định chọn nơi này làm quê hương. Như các người tỵ nạn khác, chúng tôi cũng có một bà mẹ đỡ đầu, bà Maria, bà đã tận tình giúp đỡ gia đình chúng tôi trong giai đoạn khởi đầu khó khăn, với lòng tin mãnh liệt vào Đấng Kitô, bà tin tưởng là không có việc gì bà xin mà không được, việc khó nhất, theo bà, là đã đưa được gia đình chúng tôi sang định cư tại Ý.

Năm 1998, mẹ vợ của tôi qua đời tại California, sau khi đi Mỹ thọ tang bà cụ, nhà tôi trở về với niềm cô đơn về tinh thần cực lớn. Chúng tôi phát hiện ra ở bên kia bờ đại dương, những người cùng hoàn cảnh như chúng tôi không những có một cuộc sống thoải mái hơn về kinh tế mà họ còn may mắn có được các vị Tăng Ni chăm lo về đời sống tâm linh. Đây là điều mà chúng tôi rất cần. Bà Maria cùng những người bạn Ý tốt bụng nhưng không thể nào cho chúng tôi điều này được!!! Họ giúp đỡ chúng tôi và rất mong muốn chúng tôi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ biến thành người Ý như họ, đây là sự hội nhập mà họ đang mong đợi. Việc thỉnh một Thầy qua giảng pháp cho Phật tử tại Ý cũng đã là quá khó khăn rồi, Thầy Minh Tâm (HT Khánh Anh) có qua một vài lần vào cuối thập niên 70 và đầu năm 80 nhưng sau đó Thầy không qua nữa vì Thầy quá bề bộn Phật sự tại các nơi khác và ở Ý không qui tụ được Phật tử. Thầy Nhất Hạnh, nổi tiếng tại Ý qua các kinh sách chuyển dịch sang Ý ngữ, nhưng Thầy chỉ sang miền nam Ý để dạy thiền cho thiền sinh người Ý. Như vậy việc lập một ngôi chùa Việt trên xứ Ý rất khó khăn như trồng cây hoa sen trên cánh đồng tuyết trắng vậy.

Vào tháng 6 năm 1999, năm đó tại Padova mùa hè đến hơi sớm, nhiệt độ nóng đến 35 °C, theo lời mời của anh chị Hoàng Hoa (anh là nhạc sĩ Nguyễn Hoàng, chị là ca sĩ kiêm nhạc sĩ Hoàng Hoa) chúng tôi đến một ngôi chùa Phật giáo Tây Tạng. Hôm đó lần đầu tiên tôi được gặp gỡ Thượng Tọa Thích Như Điển. Dưới bóng cây, trong khuôn viên chùa Tây Tạng ở Villorba, Treviso, người ta kê một cái bàn, và Thầy đang giảng pháp, sau lưng Thầy là một lá cờ vàng thật lớn. Thầy giảng về Phật pháp, bắt đầu từ những khái niệm đơn giản nhất, và với tôi vậy là đủ. Tôi không mong đợi Thầy sẽ nói về chính trị, nhưng câu nói ngày hôm ấy của Thầy với những bà con trong các hội đoàn chính trị hiện diện hôm đó: ”Quý vị nên tu một chút, như vậy sau này, về nước có làm lớn, thì người dân sẽ đỡ cực“ đã đánh động con tim tha hương của tôi, tôi cảm nhận ngay ở giây phút này: Thầy là người sẽ mang đến cho chúng tôi những gì mà chúng tôi đang thiếu thốn, ở một xứ mà Thiên Chúa giáo là quốc giáo.

Lúc này ở Ý chưa có Hội Phật Tử, và chỉ có bà con người Việt đến nghe pháp nên Thầy giảng bằng tiếng Việt. Khi một Phật tử xin ý kiến của Thầy về việc lập một ngôi chùa tại Ý thì thầy đã khuyên: Trước khi xây một ngôi chùa trên mặt đất thì quý vị phải xây cho mình một ngôi chùa trong tâm linh trước. Lời dặn đó, sau này được dùng làm kim chỉ nam cho việc kiến tạo ngôi già lam tại Ý.

blank

Thầy (trên cao) cùng với Phật tử trước NPĐ Viên Ý, 2002

Trong lần hội ngộ hôm đó, Hội Phật Tử Việt Nam tại Ý được thành lập và sau đó Niệm Phật Đường Viên Ý (được thầy đặt tên với nghĩa là “Ý nguyện đã được viên mãn“) cũng bắt đầu hoạt động vào tháng 9 trong năm. Thầy đã hứa, mỗi năm Thầy sẽ sang Viên Ý một lần, nhưng vì Phật sự quá bề bộn hoặc gặp trở ngại hoặc Ban Chấp Hành Hội không giải quyết được nên có năm Thầy phải qua 2 hoặc 3 lần, cho đến khi công việc Phật sự tại Ý đi vào nề nếp. Khi bắt đầu lập Hội, có một số vị trong Ban Chấp Hành Hội nhìn đâu cũng thấy đầy chướng duyên, nên sinh ra nản lòng, nhưng thầy đã khuyên: ”Quý vị cứ bắt đầu, bởi vì có bắt đầu thì sẽ có hanh thông“. Một lần đi hành hương về chùa tổ Viên Giác, được dịp trao đổi với Phật tử Đức, các vị ấy cho biết phải cẩn thận vì Thầy rất hay la. Nhưng đến nay, sau 15 năm gần gũi, làm việc chung với thầy, chúng tôi chưa thấy thầy la lần nào (có người cho là Thầy thương Phật tử Ý sanh sau đẻ muộn nên không nỡ la rầy). Chỉ có một lần, đầu năm 2000 sau 12 giờ 30 Thầy than phiền là nước Ý không có đồng hồ hay sao mà Ban Trai Soạn dọn cơm quá trễ, làm chương trình buổi chiều bị thiếu giờ…. Đúng giờ, vâng đúng giờ là thói quen của Thầy. Để khỏi phải bắt Thầy chờ đợi nên mỗi khi Thầy qua Ý chúng tôi điều chỉnh đồng hồ cho chạy sớm hơn 10 phút (cho chắc ăn) và việc này dĩ nhiên cũng bị Thầy phát hiện ra liền, sau khi nhìn đồng hồ Thầy nói với tôi: “Cứ thong thả, đồng hồ nhà anh chạy sớm hơn 10 phút”.

Và cứ như vậy, hết lần gặp này đến lần gặp khác, từ những lần gặp gỡ đó tôi từ từ khám phá ra ở Thầy nhiều điều mới lạ. Trước hết, sau thói quen rất đúng giờ, Thầy là một nhà văn, một nhà báo, một thi sĩ, và mới đây cuốn tiểu thuyết “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng“ đã được trình diễn qua nghệ thuật sân khấu cải lương… Nhưng điều làm tôi phục nhất là khả năng giải quyết các vấn đề khó khăn của Thầy. Trong quá khứ, lúc nước Ý chưa có Thầy trụ trì, có những việc mà chúng tôi 5 người họp mà không biết giải quyết cách nào, thì chỉ cần điện thoại cho Thầy là mọi việc thấy rõ ràng, giải quyết xong ngay.

Tôi không được may mắn gần gũi Thầy nhiều, nhưng qua các tác phẩm của Thầy tôi cũng học được rất nhiều điều bổ ích. Lòng biết ơn là đặc điểm nổi bậc. Qua các tác phẩm này lòng biết ơn của Thầy với các bậc sinh thành cho thấy Thầy là một người con hiếu thảo. Sự kính trọng và lòng tri ân với Sư Phụ của Thầy chứng tỏ Thầy là một đệ tử trung thành, cũng như sự nhớ ơn các Chư Tăng cùng các bạn bè đã giúp đỡ cho thầy trong giai đoạn khó khăn thuở ban đầu mà Thầy luôn luôn ghi nhớ đã nhắc nhở cho tôi cái câu “uống nước phải nhớ lấy nguồn”, hay “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mặc dù ngày nay chúng ta đang ở thế kỷ kim tiền, không ít người khi đã “qua cầu thì rút ván” cho khỏe thân….

Ngày nay, ngôi già lam của chúng tôi đã tròn 10 tuổi. 15 năm đã qua đi kể từ hôm gặp Thầy lần đầu, dạo này, nhiều người Ý đến chùa, có khi Thầy phải giảng bằng tiếng Anh, có khi thầy giảng bằng tiếng Việt và tôi có bổn phận chuyển sang Ý ngữ. Mấy năm sau này tôi thấy mình càng ngày càng gặp khó khăn hơn trong công việc dịch thuật này, không biết vì mình bắt đầu già đi nên khả năng Ý ngữ bắt đầu suy giảm, hay là vì Phật tử Ý nay đã có trình độ Phật học cao nên Thầy giảng mỗi ngày một khó hơn, dù biết rằng ai cũng phải qua giai đoạn lão hóa nhưng mong rằng điều sau đúng hơn điều trước thì vẫn tốt hơn.

Để kết thúc bài viết này, xin ghi lại câu nói của Giáo sư Nguyễn Văn Hai (Cựu phó Viện trưởng Viện Đại Học Huế) qua điện đàm với tôi vào năm 1999: ...” Đến hơn 70 tuổi, cậu mới đến được với Phật pháp, mà cháu ở tuổi 48 đã gặp được Thượng Tọa Như Điển thì thật là một điều may mắn lớn cho cháu…”. Tôi xin dừng bút ở đây, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thầy xuất gia, xin mượn những dòng chữ đơn giản này kính gửi đến Thầy tấm lòng thành kính tri ân, và xin cám ơn anh chị Hoàng Hoa, nhờ anh chị tôi mới gặp được một vì Thầy tuyệt vời như vậy...

Thiện Nguyện Bảo Chí – Italia

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24337)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9362)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10919)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3595)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3232)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10464)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14979)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3466)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]