Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Tập sách của Thầy (Thanh Phi)

17/06/201407:38(Xem: 20781)
26. Tập sách của Thầy (Thanh Phi)

blank
Ngày ấy cách nay khoảng 18 năm, con cầm cây chổi lông phủi bụi những cuốn kinh sách được xếp thẳng đứng trên kệ tủ bên cạnh bàn thờ Phật. Tủ kinh này bạn bè thường nói là gia tài của chồng con để lại cho con. Trước đây trong khoảng thập niên 1980 kinh sách rất là hiếm hoi trên đất Úc này, do đó chồng con phải gởi tiền sang Mỹ hoặc Pháp để thỉnh kinh sách, đối với anh tất cả những kinh sách này như là của báu, nên bạn bè mới nói đó là gia tài của anh để lại cho con. Con chưa đủ nhân duyên để đọc các kinh sách ấy, chỉ thỉnh thoảng phủi bụi và thoáng thấy thích cuốn nào thì lấy ra đọc.

Hôm đó trong lúc lau bụi, mắt con chợt nhìn thấy cuốn sách với tựa đề Lễ Nhạc Phật Giáo, tò mò con lấy ra xem. Lật vài trang con biết được sách dạy về nghi lễ, cách tán tụng và xử dụng chuông mõ... con vui mừng lấy cất riêng ra để xem vì thời gian ấy con đang tự mình tu tập, chưa được ai hướng dẫn về nghi lễ và cách tụng kinh. Đọc lời giới thiệu ở trang đầu, con được biết sách này do Đại Đức Thích Như Điển biên soạn và được xuất bản năm 1984 tại nước Đức xa xôi. (Nay là HT Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc.) Con đã biết đến tên Hòa Thượng với nhân duyên như vậy và con đã thầm cảm phục sự cần mẫn mà Hòa Thượng đã thể hiện qua cách ghi chú từng ký hiệu dưới mỗi chữ trong bài kinh, bài kệ để hành giả có thể theo đó mà học cách xử dụng chuông, mõ, linh, tang; cách lên giọng xuống giọng trong bài kinh tụng. Con đã học tụng kinh theo cách hướng dẫn trong sách, nhờ vậy mà sau này khi về Chùa tụng kinh chung với quý Thầy và đại chúng con đã hòa nhập được một cách dễ dàng.

Bẵng đi nhiều năm, sau này con về sinh hoạt tại Tu Viện Quảng Đức, nơi đây có nhiều Chư Tôn Đức đến viếng trong các dịp Đại lễ, nhưng tiếc rằng vì con ở trong ban trai soạn nên những ngày ấy con luôn bận rộn trong bếp, không có dịp dự lễ và diện kiến quý Ngài, chỉ được xem qua hình ảnh mà Thầy Nguyên Tạng post lên Trang Nhà Quảng Đức và nhờ vậy mà con biết mặt, biết tên từng vị rồi cảm thấy như thân quen. Đồng thời cũng qua Trang nhà Quảng Đức con được đọc những bài viết, bài giảng của chư Tôn Đức và qua đó con lại gặp tên của HT Thích Như Điển, cái tên mà con đã “quen” từ lâu. Biết thêm về Hòa Thượng, lòng cảm phục của con đối với Hòa Thượng tăng lên bội phần vì sự uyên thâm Kinh Điển, sự uyên bác qua nhiều ngôn ngữ và vì Hòa Thượng là một người có tấm lòng “Ôn cố tri tân”, luôn luôn tưởng nhớ đến những ân tình cũ và nhiệt tâm dẫn dắt giúp đỡ cho hàng hậu học.

Càng ngày con càng biết nhiều về Hòa Thượng qua những chuyến hoằng pháp ở Hoa Kỳ hàng năm do Hòa Thượng chủ xướng và Thầy Nguyên Tạng có tham gia trong phái đoàn, nên con đã được theo dõi qua Trang Nhà Quảng Đức. Rồi những lần Hòa Thượng qua tham dự Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu, trong dịp này con được diện kiến Hòa Thượng trong lúc Ngài thuyết giảng. Con từng nghe nói Hòa Thượng rất khó và nghiêm, nhưng sao lúc nghe Hòa Thượng giảng với giọng nhẹ nhàng từ tốn, con chẳng thấy Hòa Thượng nghiêm nghị, khó khăn ở chỗ nào, mà trái lại lúc Ngài cười con nghĩ chắc ai cũng cảm nhận được sự an lạc lan tỏa từ Ngài. Con có nhiều nhân duyên để tiếp xúc Quý Ngài, nhưng tánh con ít nói và hay e ngại nên chẳng dám trực tiếp hầu chuyện quý Ngài, chỉ biết đảnh lễ rồi thôi. Do vậy mà nhiều lần Hòa Thượng đến thăm Tu Viện Quảng Đức, con chỉ biết vái chào Hòa Thượng chứ không dám mở lời thỉnh an.

Con nhớ có một lần hình như lúc đó là Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu do Tu Viện Quảng Đức đảm nhận tổ chức, Quý Thầy từ Sydney xuống trước một ngày, Hòa Thượng đã đem theo hai cái bắp chuối và đưa cho Cô Hạnh Nguyên kêu Cô nấu mì Quảng, Cô Hạnh Nguyên đưa cho con nấu, cũng may hôm đó con nấu có lẽ ăn vừa miệng nên sau đó Hòa Thượng có hỏi ai nấu mì Quảng, Cô Hạnh Nguyên đã chỉ con. Rồi sau này có nhân duyên con phụ giúp quý Thầy một ít việc nên Hòa Thượng biết đến con và đã mấy lần trao tay tặng cho con sách do Hòa Thượng dịch hay trước tác.

Mới đây con nhận được cuốn Hương Lúa Chùa Quê do Hòa Thượng viết chung với bào huynh là HT Thích Bảo Lạc. Con đọc cuốn sách đó một cách thích thú tưởng như đang được theo chân quý Ngài trên bước đường dấn thân vì Đạo. Qua cuốn sách ấy con đã am tường phần nào cuộc đời của quý Ngài từ tuổi ấu thơ đến khi bước chân vào Đạo... trải qua bao dâu biển của cuộc đời, và vượt qua bao khó khăn trong đời tu để có những thành đạt ngày hôm nay. Con thật vô cùng ngưỡng phục. Con rất tâm đắc và sẽ ghi nhớ lời Hòa Thượng viết:

Trên trời, dưới đất bốn phía chung quanh tôi đều là ân nghĩa. Tôi không trách móc ai; ngược lại tôi phải cảm ơn họ. Vì không có họ thì sự hiện hữu của mình trên cõi đời này đâu có ý nghĩa gì. Nhờ tất cả mà mình được sống trong sự trưởng thành, được sống trong sự hiểu biết, có tình thương đồng loại bên mình, có được sự hiểu biết và nhận định rõ ràng để tiến tu đạo nghiệp...”.

Con nghiệp dày phước mỏng, chưa đủ trí tuệ để thông đạt lẽ huyền vi siêu tuyệt và mầu nhiệm của giáo lý Phật, chỉ có chút phước duyên hiểu được ít lời dạy của Phật, nhận chân được nỗi khổ của cuộc đời mà cố gắng tu tập. Nhưng chính hành trạng và hạnh nguyện của quý Ngài, tinh thần tích cực tu tập của quý Ngài đã nung đúc con có thêm niềm tin nơi Tam Bảo, tin sâu vào giáo lý của Phật. Con nguyện sẽ theo gương quý Ngài một phần nhỏ nào đó trong việc tinh tấn hành trì tu tập hầu có thể theo chân quý Ngài trên con đường Đạo hôm nay và mãi mãi...

Tùng xanh đứng thẳng giữa trời
Nắng, mưa, Đông, Hạ, sương rơi mặc tình
Tùng xanh vẫn giữ nguyên trinh
Xanh màu lá đậm, đậm tình nghĩa ân.

(Cảm tác khi xem bức hình HT Bảo Lạc đứng dưới cây tùng với lời chú thích “Dù nắng Hạ mưa Đông, tùng vẫn màu xanh lục” [Hương Lúa Chùa Quê, trang 190]. Và ý nghĩa 4 câu thơ này con xin hướng về HT Như Điển).

Nam Mô A Di Đà Phật


Melbourne, Úc Châu, Phật Đản lần thứ 2638 (2014)

Đệ tử Thanh Phi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4422)
cha Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi đến con. chắc con rất ngạc nhiên. Con dang xót xa vì cha cô đơn, ân hận vì không được gần cha đề săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao nghe có sự ngược đời. Con hãy nghe cha nói.
11/02/2013(Xem: 4437)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13529)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13695)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3154)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11357)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3036)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6297)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4268)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4601)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]