Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Thơ Kính Dâng Thầy (Giác Hạnh)

17/06/201407:55(Xem: 20317)
35. Thơ Kính Dâng Thầy (Giác Hạnh)


blankAtlanta
– Hoa Kỳ, mùa hè 2014



Thầy kính mến!

Mới đó mà đã mười năm kể từ lần đầu con được đến thăm nước Đức và Chùa Viên Giác. Đôi khi nhìn lại những hình ảnh chuyến đi năm xưa, rồi nhắm mắt lại tưởng chừng như vẫn nghe lời Thầy nói, nghe tiếng xe chạy trên những con đường cao tốc Âu châu, nghe thanh âm trầm hùng của đại chúng Viên Giác trong những thời kinh, và ‘nghe’ cả những non nớt của mình ngày ấy.

Thầy quý kính! Có thể nói trong trùng trùng duyên khởi gặp Thầy là một phước duyên của đời con, nếu nói có duyên từ kiếp trước thì có người sẽ cho rằng sáo ngữ, nhưng với con điều ấy như một sắp xếp của định mệnh.

Con còn nhớ, mùa hè năm 2000 lần đầu con lên đường sang xứ Ấn tham học, tất cả mọi thứ đều bỡ ngỡ, chẳng biết phải làm gì cho lần đầu xuất ngoại bằng đường hàng không. Con đang hồi hộp xếp hàng chuẩn bị lên máy bay thì có một người phụ nữ đến hỏi: “Thầy đi đâu?”. Con trả lời: “Dạ, đi Ấn Độ”… Sau khi lên máy bay, người phụ nữ ấy lại chỗ con bắt chuyện. Cô ấy hỏi rất nhiều về hành trình và dự định của con như thế nào? Có biết Ngài Như Điển chùa Viên Giác không? Con trình bày và nói chưa biết… Và cô ấy kết thúc câu chuyện khi máy bay đáp xuống phi trường Bangkok: “Con là Diệu Hiếu ở Chicago, đệ tử Ngài Như Điển chùa Viên Giác Đức Quốc – Ngài là ân nhân của nhiều Tăng Ni du học bên Ấn Độ”. Và gần hai năm sau, con mới có dịp diện kiến Thầy trong lần khánh thành Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng.

Mười hai năm kể từ lần có duyên gặp Thầy, con hiểu rằng trong hành trình cuộc đời bao kẻ đi qua mấy người dừng lại này Thầy là một trong những vị ân sư mà con hằng tôn kính!

Theo chân Thầy trong những lần du hóa, con nhận ra tâm lượng bao la của Thầy lo cho đàn hậu tấn. Thầy ưu tư cho cơ đồ đạo pháp, nhất là vấn đề giáo dục. Chú trọng vào lĩnh vực đào tạo những Tăng Ni có trình độ và khả năng kế thừa, Thầy dốc hết sức mình tạo mọi trợ duyên để Tăng Ni an tâm tu học. Hầu hết Tăng Ni du học xứ Ấn đều thọ ân Thầy. Xưa nay có mấy ai làm được những điều như Thầy từng làm?

Thầy làm việc không ngừng nghỉ: Thầy viết sách, dịch kinh, viết khảo luận không mệt mỏi… năm nào cũng có ít nhất một cuốn sách xuất bản. Bên Thầy con không thấy Thầy có một khoảng thời gian nào gọi là “rảnh”…

Huynh đệ vẫn thường nói rằng: Dù đường xa mệt mỏi, dù nóng lạnh khác thường, chưa bao giờ Thầy bỏ một thời kinh sáng. Việc hành trì của Thầy xuyên suốt và nghiêm mật như vậy mấy mươi năm qua. Ở đời, chuyện lý luận suông là việc quá dễ, chuyện thực hành những gì mình nói, mình nghĩ, mình theo đuổi mới là khó. Quý hóa thay!

Ở Thầy con nhận ra cung cách nghiêm minh nhưng gần gũi chân tình. Từ ngày con quyết định cuộc “hành trình phiêu bạc” trên đất Mỹ, vì không hợp với môi trường sinh hoạt mới, tất cả làm lại từ đầu, đôi khi cần lắm một câu thăm hỏi, nhưng có mấy ai… Con đã từng nhận những cuộc điện thoại để rồi phải suy nghĩ mấy ngày liền, những email “tan nát cõi lòng” từ những người mà con vẫn nghĩ là huynh đệ tình thâm, chuyển thành những đêm thức trắng. Để rồi cuối cùng con quyết định cắt bỏ điện thoại. Ngày Thầy nhắn tin từ nước Úc xa xôi, con vội chạy ra mở lại điện thoại… Đứng giữa khung trời giá lạnh hầu chuyện cùng Thầy qua đường dây viễn liên mà nghe lòng ấm áp vô cùng. Tri ân Thầy đã nhớ đến con! Tri ân Thầy đã cho con niềm tin vào cuộc sống!

Ngoài kia mùa hè đã về, gợi lại trong con cảm giác háo hức lần đầu chứng kiến những cánh đồng hoa vàng trên nước Đức, những cảnh trí như cõi tiên ở châu Âu, những ngày tháng an vui bên đại chúng Viên Giác. Con ngồi đây nhớ đến Thầy, nhớ đến bậc Thầy mô phạm đi vào cuộc đời trọn vẹn cái TÂM của đạo sư – cái TRÍ của hiền giả và cái TÌNH của một bậc tiền bối!

Mười năm hẹn một lần trở lại nước Đức hầu kính thăm và đảnh lễ tạ ân Thầy, nhưng duyên chưa đủ. Nhân sinh nhật lần thứ 65 và kỷ niệm 50 năm xuất gia – hành đạo của Thầy, từ phương xa hướng về Chùa Viên Giác – Đức Quốc, thành tâm đảnh lễ và kính nguyện Thầy tứ đại mãi an hòa để hàng hậu bối chúng con còn có nơi quy ngưỡng!

Cung kính,

Con: Giác Hạnh – Lê Bích Sơn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4359)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 12897)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13318)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3107)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 10921)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 2970)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6205)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4182)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4427)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3191)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]