Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự Tích Giếng Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi

24/03/201420:26(Xem: 28241)
Sự Tích Giếng Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi
Gieng_Than_Chua_Thien_An_3

Nói đến chùa Thiên Ấn không ai còn lạ về ngôi chùa này, một thắng tích được xem là “đệ nhất thắng cảnh„ cách trung tâm 3,5km (độ 10 phút xe hơi) nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc của thành phố Quảng Ngãi.

Sự thu hút du khách về ngôi chùa Thiên Ấn không chỉ vì thắng cảnh nằm ở thế đất thiêng, từ đó có thể nhìn ngắm một vùng không gian mênh mông đẹp mắt với giòng nước sông Trà lững lờ trôi; phố xá, làng mạc, ruộng đồng sinh động ẩn hiện lúc ban mai hay hoàng hôn chiều tà bảng lảng tạo nên một bức tranh thơ mộng hữu tình; hoặc cách cổng Tam quan chùa chừng 100 mét, chếch về hướng Tây Nam có ngôi mộ của cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ cách mạng văn hay chữ tốt từ thuở bé, một trong những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quí Cáp chủ trương tân học, nhằm nâng cao dân trí, phê phán chống đối nền giáo dục phong kiến hủ nho; hoặc với chiếc đại hồng chung mà sự tích về chuông thần linh thiêng lan truyền khắp dân gian khi đúc xong không có tiếng kêu, phải đợi chú nguyện, tiếng chuông lại ngân nga khắp một vùng. Ngoài ra nơi đây còn có khu viên mộ với những ngôi bảo tháp nhiều tầng kiến trúc cổ kính, an táng các vị tổ sư nổi tiếng đã có công xây dựng và phát triển ngôi đại tự. Mà đặc biệt nhất đã lan truyền trong nhân gian gây sự tò mò để thu hút du khách vẫn là chiếc giếng Phật linh thiêng nằm ngay trong sân chùa.

Sự tích kể rằng, trước đây, gần 3 thế kỷ, chưa có chùa Thiên Ấn, nơi đây là một hòn núi hình thang với trên 360 hecta. Cảnh núi rất linh thiêng hùng vĩ chim kêu vượn hót, âm u tịch mịch. Người bình thường khi đặt chân lên hòn núi này phải rùng mình trước cảnh linh thiêng hùng vĩ của núi Hó. Nơi đây rất nhiều cọp và thú rừng, không người vãng lai, thỉnh thoảng mới có ít dân làng lân la đốn củi.

Cho đến năm 1670 có một vị Thiền sư tên là Lê Diệt, Pháp danh Minh Hải, Pháp tự Phật Bảo, hiệu Pháp Hóa; sinh ra và lớn lên tại tỉnh Phúc Kiến,Trung quốc, thuộc dòng thiền Lâm Tế. Thiền sư sang Việt Nam và xây ngôi chùa tại Hội An tên chùa là Chúc Thánh và sau đó sư đến Quảng Ngãi nơi hòn núi Hó này xây một cái am nhỏ bằng cỏ, tu thiền ở đây. Hằng ngày Thiền sư chỉ ăn lá cây và củ rừng; ngồi thiền tu niệm và tu theo hạnh Đầu Đà (khổ hạnh) ăn một bữa. Sau một thời gian tu hạnh khá lâu, một hôm được chư thiên mách bảo sẽ có một đoàn người đến đây. Họ là những tiều phu đốn củi. Họ mới đến sườn núi của phiá Đông Nam, bất chợt phát hiện một hang nước trong vắt, đoàn người dừng lại uống nước, và khám phá thêm một con đường mòn dẫn họ lên đỉnh ngọn núi nơi có vị Thiền sư tọa thiền. Đó là mở đầu cho nhân duyên bắt nhịp giữa Thiền sư và đoàn người đốn củi mở ra con đường tâm linh sùng kính đạo Phật cho đến ngày nay.

Gặp Thiền sư tỏa sáng trong một hình hài khác phàm. Đối với đoàn người như gặp được một điều gì rất linh thiêng, họ xem Thiền sư như một vị Phật, vị Bồ Tát. Có cái gì đó thu hút họ như nam châm. Họ ở lại kề cận bên sư, cùng sư trò chuyện, không muốn đi đâu nữa chỉ để ngồi nghe sư thuyết pháp về đời sống tâm linh tu hành đạt đạo giải thoát. Nhưng chiều tối đoàn người phải trở về vì nơi đây rất nhiều cọp, thú dữ. Cọp dưới đồng ruộng sau khi ăn uống no nê tối thường lại về núi, ngày lại xuống núi. Một câu hỏi đặt ra, sao cọp không ăn thịt vị Thiền sư? Thiền sư khi công đức tu hành đắc đạo, bằng cái tâm từ bi vĩ đại phát ra oai lực lớn, phước đức lớn, không những bị chúng ăn thịt mà trái lại có thể cảm hóa cọp rắn beo phủ phục dưới chân mình.

Khi đoàn đốn củi xuống núi, trở về làng mạc, họ truyền miệng phát họa về một vị tu sĩ như một vị Phật, vị Bồ Tát linh thiêng để rồi dần dần một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn ngàn…cứ thế dân làng tò mò lũ lượt lên núi đảnh lễ vị Thiền sư, nghe sư giảng Pháp.

Số lượng người càng ngày càng đông. Giòng nước trong vắt khám phá hôm nào trên con đường mòn khúc khuỷu vừa cheo leo vừa hiểm trở dẫn lên núi cũng theo đó càng ngày càng vơi không đủ cung cấp cho dân làng. Sự khó khăn vất vả đưa nước dưới đồng ruộng lên núi đã là nguyên do để Thiền sư phát nguyện đào giếng.

Một ngày đẹp trời nọ, khi mà vầng dương đang tỏa xuống vạn vật những tia nắng ấm, chiếu xen qua kẽ lá như phóng hào quang. Bầu trời xanh biếc, mây trắng lững lờ trôi. Trong rừng, chim muông líu lo cất tiếng hót thường nhật, vài con tắc kè nằm trong những bọng cây cũng cất tiếng kêu tắc kè…tắc kè…, kỳ nhông kỳ đà thỉnh thoảng cũng trườn mình xuất hiện góp phần vào khung cảnh thiên nhiên, vượn hú từ xa vọng lại cũng tạo nên một âm thanh vô cùng sôi động, Thiền sư bắt tay đào giếng. Khi đào được 10 mét, tự nhiên xuất hiện một tăng trẻ ở đâu không ai rõ, đầu đội nón, vai đeo túi nải đến xin Thiền sư tá túc ở lại làm công quả giúp Thiền sư đào giếng.

Hai thầy trò miệt mài đào mãi ngày này qua tháng khác, đã sâu tới 24 mét, nước đâu không thấy mà dưới đáy chỉ xuất hiện toàn tảng đá bàng, rất dày, càng đào cũng chỉ là đá bàng, từng khối cứng ngắc. Biết dã tràng xe cát biển Đông, Thiền sư vô cùng thất vọng, bỏ cuộc. Thiền sư trở về thảo am chú nguyện 7 ngày 7 đêm. Đêm thứ 7 mơ màng thấy có một vị Bồ Tát xuất hiện nói sư nên đào giếng phía Tây Bắc, đào chừng 8 mét khi thấy một cái hườm (cái hóc lõm vào), đó là dấu hiệu chọn đúng nơi đào giếng, sẽ có nguồn nước. Mừng quá, sáng dậy, sư kể cho vị tăng trẻ nghe giấc chiêm bao vừa qua, rồi cứ thế hai thầy trò bắt đầu thực hiện. Đúng như giấc chiêm bao, chỉ đào đúng 8 mét thì phát hiện cái hườm. Biết là đã tìm thấy đúng chỗ, sư nói tăng trẻ đi lên để sư xuống đóng một cái cọc làm dấu. Cái cọc đó nối trên miệng giếng với một cây cọc nữa bằng sợi dây rừng. Cây cọc bên trên gắn một cái chuông để khi lắc dây rừng sẽ phát ra tiếng chuông báo động. Còn trục gỗ sẽ đưa cát lên. Thiền sư dặn đệ tử khi nào có nước rung cái dây cho biết, đồng thời đứng trên bệ xúc cát để Thiền sư kéo lên. Khi tăng trẻ đào được 21 mét, Thiền sư đứng trên bờ theo dõi, đợi mãi chưa thấy động tịnh gì, mệt mỏi, Thiền sư ra ngoài nghỉ xả hơi, chỉ một lát trở lại nhìn xuống giếng đã thấy nước mênh mông lai láng. Mừng quá, Thiền sư kéo nước lên, uống vài ngụm mát rượi, quên mất dưới đáy giếng còn sót vị tăng trẻ. Thiền sư cho người xuống kiếm, thì chẳng thấy đâu. Quá đổi ngạc nhiên, Thiền sư nghĩ đây là do Chư thiên cử “Thần„ đến giúp sư đào giếng. Vì vậy, khi nước đào thấy thì…Thần cũng biến mất, không còn nghe tăm hơi gì nữa cả. Câu chuyện kỳ lạ, tiếng đồn vang khắp vùng lan truyền đến cả triều đình đời vua Lê Dụ Tông. Chúa Nguyễn Phúc Chu, người rất mộ đạo Phật thỉnh Thiền sư về cung rồi sắc phong cho nơi này là Sắc Tứ Thiên Ấn Tự (xem hình Chùa này).

Chua_Thien_An_Quang_Ngai (4)
Từ đó, Thiền sư về lại núi rồi vào Bình Định cùng với Thiền sư Nguyên Thiều khuyến tấn sơn môn mở rộng đạo tràng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và muôn ngàn dâu bể phế hưng, từ lớp lớp đến lớp lớp, sư tổ đã để lại nơi đây nhiều kỷ vật thân yêu là cái giếng thần và thảo am ngày xưa chính là ngôi đại tự bây giờ.

Am xưa giếng cũ vẫn còn đây

Dấu tích sư tổ về núi Hó.

Một giòng nước mát giữa trời mây.

Tiếng mõ am xưa sư thiền định

Chim rừng buông cánh rủ nghe kinh.

Vượn từng đàn, hang chật cửa

Muôn vật từ bi cõi nhân sinh.

Mênh mông u tịch rừng hoang vắng.

Hang sâu vượn hú chẳng sớm hôm.

Gieng_Than_Chua_Thien_An

Ngày nay, ngôi đại tự đã được bao người, Tăng Ni Phật tử trong cũng như ngoài nước góp công sức trùng tu thêm bảo tháp 9 tầng và trong khuôn viên chùa tạo lập vườn Lâm Tỳ Ni để kỷ niệm nơi Đức Phật Đản sanh, cùng nhiều tôn tượng Phật lớn nhỏ; rải rác còn có những chiếc ghế đá cho Phật tử viếng chùa nghỉ chân….đặc biệt nữa là cái giếng thần được tô điểm bằng một vòng rào làm từ gạch đỏ có chiếc cổng nhỏ vòng cung trông vô cùng mỹ thuật. Rồi khi mọi người cầm ly nước tại chùa Thiên Ấn uống đều không quên rằng:

Có thầy đào giếng trên non.

Đến khi có nước không còn tăm hơi.

Trần Thị Nhật Hưng

2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6429)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7758)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3603)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3562)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11660)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4039)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3523)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10948)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6889)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13252)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]