Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (pdf)

21/01/201411:26(Xem: 22603)
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (pdf)

Canh_Duc
Lời giới thiệu

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục

Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.

Lời giới thiệu Cảnh Đức Truyền Đăng Lục

Sa môn Thích Thông Bửu - 2004


Nhà nghiên cứu Phật học Lý Việt Dũng là giáo thọ của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (Vạn Hạnh) cùng nhiều đạo tràng khác trong Tp.HCM, đặc trách mục "Hỏi đáp Phật học" của Nguyệt san Giác Ngộ, đồng thời cũng là người góp ý thường xuyên về mặt biên soạn kinh điển của Tổ đình Quán Thế Âm chúng tôi.

Ngoài thì giờ dạy học và viết báo Phật giáo ông thường xuyên chú tâm phiên dịch kinh Phật không phân biệt Thiền hay Giáo. Riêng về Thiền, ông chủ trương biên soạn các tác phẩm Thiền tông Hoa – Việt mảng Hán Tạng, tuần tự sau Việt tới Hoa, cụ thể như sau "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục" là đến “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục”.

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục là một bộ Thiền sử Trung Hoa có thể nói là xưa nhất nhì và hoàn bị nhất mà từ khi ra đời vào năm đầu niên hiệu Cảnh Đức nhà Tống (1004) cho đến nay (2004), trải qua 1.000 năm mà chưa có ai phiên dịch hay chú giải vì sách vừa đồ sộ về dung lượng (Tiểu truyện 1.701 Thiền sư), lại vừa rất khó hiểu ở văn Lý và Thiền ý. Cho nên một dịch phẩm đầy đủ, trọn vẹn, nhất quán mà lại có chất lượng là rất cần không chỉ riêng cho các tăng, ni sinh mà cho cả những ai trong nước Việt Nam ta, muốn hiểu Thiền phong Trung Hoa nói riêng và lãnh vực Thiền nói chung.

Do ý thức được sự cần thiết của bản dịch, trân trọng tính chịu khó cần cù của dịch giả, nên ban đầu chúng tôi gợi ý động viên rồi sau đó trong phạm vi khả năng cho phép, đã hết sức ủng hộ dịch giả về mặt vật chất, vì nói thẳng, ông rất nghèo, và tinh thần, vì không mấy khi ông được mạnh khỏe, để hoàn thành công trình.

Sau khi hoàn thành bản thảo, nhà nghiên cứu có nhờ chúng tôi xem lại và viết mấy dòng giới thiệu. Đọc xong bản thảo chúng tôi vô cùng cảm động vì bản dịch được truyền tải từ nguyên văn chữ Hán qua chữ Việt một cách tự nhiên nhưng trong sáng dễ hiểu, nên đặt bút viết ngay mấy lời mà không có chút e ngại vì dĩ nhiên tác phẩm phải có chỗ khiếm khuyết, nhưng nhìn chung, công có thể lấn át tội. Vậy nên mạnh dạn có mấy lời giới thiệu thô thiển đến độc giả.

Tổ đình Quán Thế Âm 2004
Trụ trì
Sa môn Thích Thông Bửu

Canh_DucLời giới thiệu Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
HT. Thích Phước Sơn

Sau khi bộ Thiền Luận của thiền sư Suzuki được chuyển ngữ sang tiếng Việt, những độc giả hâm mộThiền tông có dịp thưởng thức một bộ Luận thư đầy lý thú, xem đó như là một bộ sách khái yếu về Thiền học rất đáng trân trọng, nhưng vẫn mơ ước được đọc một bộ Thiền sử hoàn bị hơn. Khát vọng chân chính ấy giờ đây đã trở thành hiện thực.

Đó là sự xuất hiện của dịch phẩm Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Bộ lục này do Thiền sư Đạo Nguyên người đời Tống biên soạn, gồm 30 quyển, trình bày từ bảy đức Phật đến 27 vị Tổ Tây Thiên, sáu Tổ Đông Độ và Ngũ gia thất phái, bao quát 52 thế hệ, 1.701 người. Sau khi soạn xong, Đạo Nguyên đem dâng lên vua Tống Chân Tông, vào năm Cảnh Đức thứ nhất (1004). Nhận được sách, Chân Tông rất hân hoan, liền truyền lệnh cho quan Hàn lâm học sĩ Dương Ức hợp lực cùng các bạn đồng liêu giám định, rồi bảo ông viết lời tựa. Qua đó chúng ta thấy rõ giá trị của bộ sách như thế nào.



 
Vì vậy mà các nhà Phật học xem nó như kim chỉ nam của Thiền tông nói chung và của Thiền tông Trung Hoa nói riêng. Giờ đây, bộ sách đã được nhà dịch thuật Lý Việt Dũng phát tâm phiên dịch. Khi đề cập đến vị dịch giả này, có lẽ ít ai trong chúng ta là không biết đến ông. Bản tính ông vốn cẩn trọng, phải chăng do chịu ảnh hưởng quan điểm được xem là của Lão Tử: Làm văn hóa mà sai lầm thì hại cả muôn đời. Vì thế mà trước đây khi nhận trách nhiệm dịch quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, ông đã tốn khá nhiều công phu thôi xao tư liệu, đắm mình trong Thiền tịch; và nhờ vậy mà khi phiên dịch, ông đã có cơ hội kiểu chính không ít những thuật ngữ Thiền học bị nhầm lẫn trong các tư liệu Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay. Sau khi sách xuất bản, ông đã nhận được sự phản hồi đầy ưu ái của các bạn đọc có nhiều tâm huyết.

Với niềm khích lệ lớn lao ấy, ông tiếp tục dấn thân vào lãnh vực chuyên môn của mình trong công việc dịch thuật. Phải công nhận rằng ông vốn có năng khiếu bẩm sinh về Hán học, đồng thời có biệt nhãn sắc bén về Thiền lý, vô sư tự ngộ, và đặc biệt rất ngưỡng mộ phong thái kỳ đặc của các Thiền sư trác việt. Mặc dù không xuất thân từ danh môn chánh phái, cũng chưa từng tham thiền nhập định mòn rách bồ đoàn, thế mà khi đọc những vấn đáp nghịch thường của các Thiền sư, ông lãnh hội một cách dễ dàng như những câu chuyện nhàn đàm trong cuộc sống đời thường. Điều này gợi cho chúng ta liên tưởng đến truyền thuyết cho rằng thi hào Tô Đông Pha là hậu thân của một Thiền sư.

Quí mến mối chân tình tri ngộ, cảm kích tấm lòng nhiệt thành đối với tiền đồ Phật giáo và tin tưởng bản lĩnh của dịch giả, chúng tôi trân trọng giới thiệu dịch phẩm Cảnh Đức Truyền Đăng Lục với chư vị Tôn túc, Tăng Ni, Phật tử và độc giả bốn phương. Hy vọng dịch phẩm này sẽ đáp ứng phần nào niềm khát khao của những người muốn tìm về nguồn mạch tâm linh và nâng kiến thức Thiền học của Phật tử Việt Nam lên ngang tầm với thời đại.

Thiền viện Vạn Hạnh, mùa Vu lan năm 2004, PL.2548
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
HT. Thích Phước Sơn

Canh_Duc


Lời giới thiệu Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
Tỷ-kheo Viên Minh


Ngôn ngữ Thiền là ngôn ngữ phi ngôn ngữ, bởi nó không giống như ngôn ngữ triết học, tôn giáo hay bất kỳ thể loại nào khác. Nó không nhằm dẫn đến một hệ thống luận thuyết hay quan điểm nào cả. Tuy vậy, qua nó chúng ta có thể bắt gặp chiều sâu mà hành trạng, sự tu chứng hay thân giáo phong phú, trung thực của các vị Thiền sư biểu thị. Ngôn ngữ Thiền có vẻ như rất kỳ bí nhưng thực ra lại quá rõ ràng và trực tiếp đến độ dường như trong đó ngôn ngữ không hề có mặt.

Trớ trêu thay, hầu như tất cả Ngữ Lục đều viết bằng chữ Hán, dù cho đó là Ngữ Lục của các Thiền sư Nhật Bản, Hàn Quốc hay Việt Nam. Để đọc được những tác phẩm ấy chúng ta cần có những bản dịch tương đối chính xác, đòi hỏi người dịch không những phải có một trình độ uyên thâm về Hán ngữ, Việt ngữ cũng như Thiền lý, mà còn phải dày công tra cứu, so sánh, đối chiếu... rất nhiều tài liệu mới có thể chuyển ngữ được một cách trung thực, ít nhất là trên phương diện ngữ nghĩa.

Ngữ nghĩa sai thì khó có thể tiếp cận được với những ngụ ý mà chư Thiền đức muốn khải thị huống chi là chạm đến chiều sâu thân chứng của các ngài. Dịch thuật Ngữ Lục quả là khó hơn bất kỳ loại phiên dịch nào khác, bởi dịch giả không những phải dịch đúng từng câu từng chữ mà còn phải đọc được những ẩn ý vô ngôn giữa những từ, những cú như một thứ cạm bẫy thường giăng ra để thử thách căn cơ của chư Thiền giả.

Xem ra, ngoài tinh thông ngữ nghĩa người dịch còn phải có trực giác thấy được “Ý tại ngôn ngọai” mới mong chuyển tải được ý chỉ thâm mật của Thiền. Trong tất cả Ngữ Lục thì Cảnh Đức Truyền Đăng Lục mà Thiền sư Đạo Nguyên đã sưu tập được 52 đời truyền thừa của Thiền tông Trung Hoa với 1.701 vị Thiền sư xuất chúng, có thể xem là tiêu biểu, nòng cốt và mẫu mực cho hầu hết các Ngữ Lục về sau, do đó là tài liệu quí giá cho những ai muốn khám phá thế giới Thiền Đông Độ. Bởi vậy một bản dịch chính xác, trung thực sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho nhiều thế hệ Thiền học Việt Nam.

Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu. Với trực giác bẩm sinh về ngôn ngữ, với trình độ tinh tường về Hán học, với thời gian chuyên nghiền ngẫm tham cứu lâu dài về Thiền, anh vẫn thận trọng làm việc một cách nghiêm túc, cần cù và tỉ mỉ để tránh tối đa những sai sót mà người trước đã vấp phải. Tuy vậy, không tự mãn, anh luôn tham vấn, thỉnh ý chư tôn Thiền đức hoặc bàn bạc với các Thiền hữu cho đến khi khai thông được những điều chưa sáng tỏ. Đó chính là lương tâm khả kính của một người làm công tác dịch thuật.

Những sáng kiến mà anh thêm vào, như phần Phụ Lục, có thể giúp cho những người nghiên cứu khỏi mất thì giờ tìm kiếm tài liệu đối chiếu, tra cứu; phần Gợi Ý của riêng anh, dù chủ quan hay khách quan, vẫn là những ý kiến cần được tôn trọng như là thiện ý muốn giúp cho người nghiên cứu rộng đường tầm cầu Thiền lý, mặc dù khi tâm sự với tôi về những góp ý của mình anh tỏ ra khiêm nhường, rằng phần này chỉ đặc biệt dành cho tăng ni sinh trong các lớp Thiền học mà anh hướng dẫn thôi chứ không xem đó như là những kiến giải mẫu mực. Thực ra chưa ai dám tự cho kiến giải của mình là đúng, nên mới cần đến sự ấn chứng của chư vị Thiền sư đạt ngộ. Do đó, thái độ khiêm nhường của anh cũng là một phẩm chất đáng quí. Tuy nhiên, theo tôi, kiến giải vẫn là giai đoạn tất yếu có trước và sau khi ngộ.

Tôi không dám bàn gì thêm về giá trị nguyên tác hay phê bình phẩm chất bản dịch cũng như những góp ý chân tình của anh, vì tất cả đã được trình bày đầy đủ, xin nhường lại cho chư độc giả rộng quyền phán xét. Dĩ nhiên, không có bất kỳ một bản dịch nào hoàn hảo, nhưng với những gì đạt được trong dịch phẩm này không những là một cống hiến lớn lao của anh cho Thiền học Việt Nam nói riêng mà còn làm phong phú cho kho tàng văn học nước nhà nói chung. Chân thành cám ơn anh Lý Việt Dũng đã cho tôi xem lại bản thảo dịch phẩm Cảnh Đức Truyền Đăng Lục trước khi xuất bản. Cẩn bút.

Tổ đình Bửu Long, mùa An cư 2548
Tỷ kheo Viên Minh


Canh_Duc
Sách do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành, có bán tại Nhà sách Văn Thành,
http://nhasachvanhoaphatgiao.com/
Nhà Sách Văn Thành, ĐT: 38 482 028 – 0908585 560,
<[email protected]>
411 Hoàng Sa, P8, Q3, TP. HCM


Cảnh Đức truyền đăng lục (zh. jǐngdé chuándēng-lù/ chingte ch'uan-teng-lu 景德傳燈錄, ja. keitoku-dentōroku), cũng được gọi tắt là Truyền Đăng lục, là tác phẩm lịch sử cổ nhất của Thiền tông Trung Quốc, được một vị Thiền sư thuộc tông Pháp Nhãn là Đạo Nguyên, môn đệ của Quốc sư Thiên Thai Đức Thiều, biên soạn vào năm Cảnh Đức, đời Tống Nhân Tông (1004). Bộ sách này nói về cơ duyên của chư tổ cho đến Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích (885-958).

Cảnh Đức truyền đăng lục gồm 30 quyển, vốn có tựa đề là Phật Tổ Đồng Tham tập, được xếp vào Đại Chính Tân Tu Đại tạng kinh, tập 51, số 2076. Sách này sưu tập ghi chép về hành trạng, cơ duyên v.v. của 1701 vị, bắt đầu từ Phật đời quá khứ đến các vị Tổ thuộc đời thứ 51 của Ngũ gia tông phái. Trong đó, 951 vị có phụ thêm ngữ lục. Vì bộ sách này được vua sắc chỉ nhập tạng vào niên hiệu Cảnh Đức thứ 1 (1004) nên đặt tên là Cảnh Đức. Về pháp hệ truyền thừa giữa thầy và trò nối nhau không dứt giống như lửa của ngọn đèn có năng lực phá trừ tối tăm, nối nhau liên tục nên gọi là Truyền Đăng. Đầu quyển có bài tựa do Dương Ức soạn. Nội dung toàn sách nói về sự truyền pháp Thiền như sau:


Quyển 1, 2: Bảy đức Phật đời quá khứ và Tổ Ma-ha-ca-diếp (摩訶迦葉) truyền xuống đến Tổ thứ 27 là Bát-nhã-đa-la (般若多羅).
Quyển 3: Năm vị Tổ Trung Quốc: Bồ-đề-đạt-ma (菩提達摩), Huệ Khả (慧可), Tăng Xán (僧璨), Đạo Tín (道信), Hoằng Nhẫn (弘忍).
Quyển 4: Pháp hệ chi nhánh của Tứ tổ Đạo Tín (道信) và Ngũ tổ Hoằng Nhẫn như: Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪), Bắc Tông Thiền (北宗禪), Tịnh Chúng Tông (淨眾宗) v.v. và truyện ký của các vị: Ngưu Đầu Pháp Dung (牛頭法融), Thần Tú (神秀), Phổ Tịch (普寂) v.v.
Quyển 5: Lục tổ Huệ Năng (慧能) và pháp hệ của sư.
Quyển 6: Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海).
Quyển 7: Nga Hồ Đại Nghĩa (鵝湖大義) và Ma Cốc Bảo Triệt (麻谷寶徹).
Quyển 8: Gồm 54 vị như: Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願)...
Quyển 9: Gồm 30 vị nối pháp Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海)...
Quyển 10: Gồm các vị nối pháp Thiền sư Nam Tuyền như: Triệu Châu Tòng Thẩm (趙州從諗)...
Quyển 11: Các đệ tử nối pháp của Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu (溈山靈祐), Tổ của Quy Ngưỡng tông (溈仰宗).
Quyển 12: Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄), vị Tổ của Lâm Tế tông (臨濟宗).
Quyển 13: Pháp hệ của Hà Trạch tông (荷澤宗). Truyện ký về hai vị Trừng Quán (澄觀) và Tông Mật (宗密) thuộc Hoa Nghiêm tông (華嚴宗).
Quyển 14: Thạch Đầu Hi Thiên (石頭希遷) và pháp hệ.
Quyển 15: Động Sơn Lương Giới (洞山良价).
Quyển 16: Các đệ tử nối pháp của Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám (德山宣鑒).
Quyển 17: Pháp hệ của Tào Động tông (曹洞宗).
Quyển 18, 19: Pháp hệ của Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存).
Quyển 20: Pháp hệ của Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch (曹山本寂).
Quyển 21: Pháp hệ của Thiền sư Huyền Sa Sư Bị (玄沙師備).
Quyển 22, 23: Pháp hệ của Vân Môn tông (雲門宗).
Quyển 24, 25, 26: Pháp hệ của Pháp Nhãn tông (法眼宗).
Quyển 27: Các Thiền sư nổi tiếng không thuộc bất cứ tông phái nào.
Quyển 28: Các ngữ lục đặc biệt của 11 vị Thiền sư như: Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠), Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會) v.v...
Quyển 29 tựa đề là Tán tụng kệ thi gồm tất cả kệ tụng của 17 vị như: Bạch Cư Dị (白居易)...
Quyển 30 tựa đề là Minh ký châm ca (銘記箴歌) gồm tất cả 13 loại: Toạ thiền châm (坐禪箴), Chứng Đạo ca (證道歌)...

Sách này có một bản khắc lại: Tư Giám Trùng San (思鑒重刊), khắc lại vào đời nhà Nam Tống, năm 1134. Hi Vị Trùng San (希渭重刊), khắc lại vào đời nhà Nguyên, năm 1316. Quyển Đăng lục này là tư liệu căn bản để nghiên cứu sử Thiền tông Trung Quốc, rất nhiều công án được nhắc đến lần đầu ở đây.


Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.




CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC (quyển 1)

CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC TRỌN BỘ



 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3240)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1446)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 780)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 746)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 960)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1350)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 944)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9102)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 745)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1630)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]