Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

An Dưỡng, Chùa làng tôi (bài của TT Nguyên Tạng, do Phật tử Quảng Hương và Diệu Danh diễn đọc)

19/09/201317:34(Xem: 27264)
An Dưỡng, Chùa làng tôi (bài của TT Nguyên Tạng, do Phật tử Quảng Hương và Diệu Danh diễn đọc)

chua-an-duong 2


An Dưỡng - chùa làng tôi

Bài viết của TT Thích Nguyên Tạng
Do Phật tử Quảng Hương diễn đọc


Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc



Chùa làng dựng ở xóm côi,
Sớm khuya hai buổi nghe hồi chuông ngân.

Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.

Chùa làng quê khắc sâu trong ký ức tôi những kỷ niệm đậm đà; nơi đó tôi đã sống, đã khoác lên người màu áo đà hoại sắc, đã thơ ngây với tuổi đạo ban đầu, nhưng sắt son trong ý thức!

Rồi thời gian trôi qua, các pháp duyên khởi, tất cả hữu tình, vô tình đi vào sinh diệt, chợt biến chợt hóa, mất còn, lay động. Tôi, cái tôi của ngày xưa giờ vẫn còn, nhưng cũng có thể nói đã mất! Tôi muốn nhắc đến kỷ niệm, tôi muốn nói đến cảnh giới vô thường, quốc độ biến dị. Và chùa tôi cũng không nằm ngoài quy luật ấy.

Theo lời sư phụ kể, trước kia chùa tọa lạc cách vị trí hiện nay về hướng đông khoảng 50m và không rõ chùa được di dời như vậy từ bao giờ, lại được trùng tu mấy lần; chỉ biết chùa được tái tạo vào năm 1893 tức niên hiệu Thành Thái thứ V. Khoảng năm 1938 thời Bảo Đại năm thứ 3, chùa được trùng tu lần nữa; đến năm 1974 thì chùa bị hư nát khá nặng nên Thượng Tọa Thích Như Ý lúc ấy là trụ trì, cùng với Phật tử địa phương đã thực hiện xây lại ngôi Tự viện mới. Công trình này được xây trước mặt tiền và cách ngôi chùa cũ khoảng 7 mét. Vừa xây xong phần nền móng thì bị đình trệ, vì thời cuộc rối ren năm 1975. Mãi tới năm 1985, sư phụ tôi mới đủ duyên khởi công tái xây dựng, và 3 năm sau đã hoàn thành.

Thân tộc tôi có duyên với ngôi chùa này từ nhiều đời, truyền thống ấy vẫn tiếp tục duy trì và đến thế hệ cha mẹ tôi, đỉnh điểm cao nhất là trong gia đình tôi có 3 người con xuất gia đầu Phật. Công đức này phải được kể đến là Bổn Sư chúng tôi Hòa Thượng Thích Như Ý, Người được Phật tử trong làng cung thỉnh về trụ trì năm 1970, dù sau đó ngài cung cử đệ tử của Ngài là Thầy Tâm Như, (một người cùng làng tôi, sau 1975, vị này đã hoàn tục), để chăm sóc chùa, nhưng lãnh đạo tinh thần vẫn là trách nhiệm của Ngài. Mỗi năm đến mùa Phật Đản, Vu Lan đều có những lễ truyền giới quy y, và dân làng tham dự rất đông. Tôi thích nhất là lễ cúng cầu an đầu năm vào rằm tháng giêng với giàn đèn Dược Sư và đèn cầy được xếp theo mô hình Cửu Diệu Tinh Quân (vị trí của 9 ngôi sao trong vũ trụ, 9 ngôi sao này biểu trưng cho sự sống thiện ác của con người dưới bầu trời), được thiết trí trang hoàng trong khóa lễ trông rất đẹp mắt và linh thiêng. Gia đình tôi đã quy y với Hòa Thượng Thích Như Ý hồi năm 1970, tất cả được Người đặt pháp danh bằng chữ Tâm, như Tâm Hưng, Tâm Thái, Tâm Chánh, Tâm Phương, Tâm Vân, Tâm Hương, Tâm Nguyên  [1]....

Hoa Thuong Thich Nhu Y

HT Thích Như Ý
Vị Thầy Bổn Sư của gia đình tác giả


ht tam tri
HT Thích Tâm Trí
Vị Thầy Bổn Sư thứ 2 tác giả

 




Chu Tieu Nguyen Tang 1981

Hình tác giả, Chú Tiểu Nguyên Tạng
(chụp năm 1981)




Đặc biệt trong thời gian này, Gia đình Phật tử An Dưỡng được thành lập, và các anh chị tôi đều tham gia sinh hoạt, trở thành những huynh trưởng đầu đàn của Gia đình. Nhờ được hun đúc, rèn luyện tinh thần “bi, trí, dũng”, “duy tuệ thị nghiệp” lấy trí tuệ làm sự nghiệp... mà sau đó bào huynh Tâm Phương đã phát tâm xuất gia với Hòa Thượng Như Ý tại chùa Linh Sơn. Tôi xuất gia với Thượng Tọa Tâm Trí (Trụ Trì Chùa An Dưỡng từ năm 1975), chị tôi sư cô Thích Nữ Tâm Vân, xuất gia với Sư bà An Tường. Riêng bào huynh Tâm Phương sau khi xuất gia với Hòa Thượng Thích Như Ý, đã về lại Chùa An Dưỡng hỗ trợ với Sư huynh Thích Tâm Trí trong việc hoằng pháp trước khi về Sàigòn, và sau đó tìm đường định cư tại Úc châu.

Sau thời gian trùng tu và ổn định, hiện tại chùa An Dưỡng làng tôi là trung tâm tu học của Phật tử xa gần trong và ngoài tỉnh Khánh Hòa.. Sư phụ tôi đã từng bước tổ chức các khóa tu học ngắn hạn, lễ sám hằng tháng, ngõ hầu phương tiện chuyển hóa người dân trong làng đi vào chánh đạo, đúng như câu ca dao Việt Nam từng có câu:

“Làng tôi nhỏ bé xinh xinh,
Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
Trong làng san sát nóc nhà,
Đình làng lợp ngói có vài cây cau,
Chùa làng rêu phủ mái nâu
Dân làng thờ cúng để cầu bình an”.

Mong rằng, An Dưỡng, ngôi chùa làng tôi luôn ấp ủ lòng từ bi, yêu thương, là nơi mở khai ánh sáng trí huệ, giúp cho đời sống của người dân làng Thái Thông mỗi ngày mỗi thăng hoa, mỗi ngày mỗi xa dần chỗ tối tăm đau khổ mà bước lên cảnh giới an lạc giải thoát.


Tâm Nguyên
(sau khi xuất gia Bổn sư đặt lại pháp danh là Nguyên Tạng)     
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 10809)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 12857)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6481)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4535)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2495)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3713)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2624)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6328)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 8666)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
03/09/2021(Xem: 4917)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]