Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Đọc Thơ Mặc Giang “Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”

31/01/201206:22(Xem: 14829)
25. Đọc Thơ Mặc Giang “Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”

Đọc Thơ Mặc Giang “Thấy tưởng Thường,

nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”

Ngày 25-10-2005

Ngô Lâm

60 năm trước, lúc trên 10 tuổi biết đọc sách, tôi cũng thích thơ, nhưng tìm đọc loại thơ chinh chiến (người chiến binh đi chiến đấu). Những bài hay thì chép ra sổ nhỏ để đọc lai rai. Thỉnh thoảng cũng thích thơ tình, loại hay cả ý lẫn lời. Cho tới lúc sắp rụng về cát bụi, tôi chuẩn bị để ra đi cho nhẹ nên không còn hồn để đọc thơ nữa.

Tuy nhiên, nhờ biên soạn sách 30 Năm . . . Phải đọc, phải lục lọi, nên đọc đủ thứ thơ, hay cũng đọc không hay cũng đọc, vì hay và không hay thường hay lẫn lộn. Hoặc nếu nghe ai đó khen thơ tác giả này nọ hay, thì tôi chú ý đọc thử.

Một hôm, như thông lệ, tôi hay ghé các vị trong Ban Biên Soạn, vừa thăm chừng bài đánh máy và đem bài đánh rồi về đọc. Đang gặp một vị trong Ban khoảng 15 phút xong, chuẩn bị ra về, thì bất ngờ gặp Mặc Giang đeo túi vải đi vào, tôi chào cả hai, ra về. Bước đi mấy bước, tôi ngoáy lại thưa với ông: “Nội tướng tôi đọc trên báo thấy nhiều Thơ Mặc Giang, bà ấy khen quá, mà tôi chưa đọc. Nếu được, cho tôi xin những bài thơ đã phổ biến!”. Ông cười rồi móc trong túi vải đeo, lấy ra và đưa 3 tập thơ khổ A4, mỗi tập 100 bài, trông thật đẹp mắt. Tôi xin chữ ký, ông nói đóng dã chiến mà, để mai mốt in sách đã, đem về đọc đi.

Về đọc ngay hai hôm. Sau đó đến gặp, thưa với ông, tôi đang lục tìm các bài viết kể cả thơ nói về 30 năm xa xứ, nhưng tuyệt nhiên chưa thấy. Xem kỹ trong 3 tập thơ của ông mới cho, có được vài câu. Ước gì có được vài trang cho kịp, vì vài tuần nữa là sách đưa đi in. Nghe tôi nói thế, ông làm thinh. Vài ngày sau, anh Đức Lan (kỹ thuật) báo tin có 3 trang thơ của Mặc Giang mới gởi tới cho sách 30 Năm. Tôi cấp tốc chạy lấy bài về đọc. Bài 1 “Ba mươi năm, lịch sử trôi dòng !”. Bài 2 “Ba mươi năm rồi đó !”. Bài 3 “Dòng thời gian Em có nghe !”. (Cả ba bài, buồn, hay và rất cảm động). Rồi chọn một bài cho vào sách, đúng ra là cả ba, nhưng số trang dành cho từng vị có hạn. (Xin mời độc giả chờ tìm đọc khi tác giả xuất bản).

Cũng Mặc Giang, những dòng thơ khác, trong “Tôi đi mãi trên hành trình bất diệt” (tháng 6-2005) :

Nếu bảo chết là trở về cát bụi

Hỏi suối vàng còn có chỗ để dung

Mà xưa nay nhào vô đó tới cùng

Nhét một đống thì làm sao thở nổi ? ...

Trong “Rau Cỏ bốn mùa” (6-2005)

Hơn 30 loại rau được vào đây :

... Cỏ rau đều có bốn mùa

Có tiền mua chợ, không, mua ngoài đồng

Dù ngon, dù dở, cũng xong

Đói ăn khát uống no lòng thì thôi

Quê mình đẹp lắm ai ơi

Cơm ngon canh ngọt đời đời ấm no.

Trong “Sông nước Việt Nam” (7-2005)

... Bắc Nam Trung vẫn một màu

Năm ngàn năm, vẫn trước sau một dòng

Cùng đi, liền núi liền sông

Bắc cầu liền nhịp, bắc sông liền bờ

Cùng đi, gìn giữ điểm tô

Muôn năm bền vững cơ đồ Việt Nam.

Nếu ngồi mà soạn ra những dòng thơ mình thích, thì bài nào cũng có, nhưng hai câu “Mập mờ chiếc bóng lung linh. Hư vô một cõi riêng mình thế a!”, trong “Hư vô, một cõi riêng mình”, hay “Cội già ngã bóng lung linh. Rừng khuya thức giấc, hỏi mình là ai?” trong “Quê nhà sẵn có từ lâu”, làm cho tôi, tuổi luống về chiều giật mình và rúng động.

Quả thật, “Thơ thấy Thường mà Hay, Lạ và Đặc Biệt” ! Không lạ, sao phi thuyền bắn phi tiêu vào sao chổi giữa không trung cũng diễn tả được bằng thơ. Bão tố Katrina hãi hùng bên Hoa Kỳ bữa trước, bữa sau đã có Thơ của Mặc Giang phổ biến kêu gào cứu trợ, “Lại động đất Kashmir” cấp kỳ đăng báo kêu cứu. Rồi “Từ cõi chết, em lần mò sống lại”, nói về động đất tại Iran. “SARS, cướp em tôi!” nói về dịch nhiễm thời đại. “Dịch cúm này làm hại Gà tôi !”, đang là cơn chấn động trùm khắp chưa diệt được. Nhìn qua ông và thấy được ông, sâu sắc, nhạy cảm, kịp thời, và hoạt động, làm việc, bất luận thời gian, thong dong nhưng cực khổ, chịu đựng, và có một tư thái bình dị nhưng dị thường.

Đặc Biệt nhất ở đây, bài viết về Mẹ nhân Mùa Vu Lan, do Lý Thừa Nghiệp bao dàn, có 7 bài thơ góp mặt trên Thời Báo số 402, thì Mặc Giang với nhan đề “Từ Đó Xa Mờ, dâng hương hồn Mẹ”, được một vị yêu thơ, khó tính, nhận xét và cho rằng, bài của Mặc Giang hay nhất, có ý là diễn tả cảm động nhất.

Rất tiếc, với hơn 5 tập thơ, tức hơn 500 bài, khổ A4, được in “dã chiến”, tác giả bộn bề nhiều công việc, phương tiện chưa cho phép, mà lượng thơ cứ ào ạc tuôn trào, phong phú, đa dạng, đủ mọi hình ảnh, sắc thái, như triều dâng vũ bão, xuôi ra tận biển, ngược lên tận nguồn, vần vũ mây trời, lại đổ thành mưa, tưới tẩm ruộng đồng, tắm mát muôn sông. Mới đó, những ngày chuẩn bị cho Sách 30 Năm, tác giả có hơn 260 bài, thì nay, chỉ mấy tháng thôi, con số đã lên hơn 520 bài. Vậy mà nhà thơ Mặc Giang mới chuẩn bị cho ra đời tập một “Quê Hương Còn Đó”, gồm 70 bài trong nay mai. 

Tôi không phải là một nhà thơ. Nhưng một hôm, có một BS nói với tôi: “Tại Úc có một nhà thơ lớn và nhà thơ ấy cũng là một anh hùng. Hồn thơ của ông đã nâng tôi dậy”. Lại một nhà báo và là chủ nhiệm một tờ báo lớn ở nước ngoài, hồi hưng thời, có khoảng 15 ngàn độc giả dài hạn, sau đó, giản còn khoảng 10 ngàn. Ông nói bóng rằng “Cách chọn bài của tôi, không cần danh to, bằng cao, tên tuổi . . . mà phải Đặc biệt, Hay, Lạ, là nhất và được ưu tiên”. Nay ông đã qua đời, nhưng báo ấy vẫn còn sống khá mạnh. Lại thoảng nghe có người nói, “Mặc Giang, ở cương vị kia, còn phải gánh vác và hy sinh cho đến suốt đời, nhưng về lãnh vực sáng tác, ông đang có một khối lượng quá lớn, có giá trị, để lại cho đời và đóng góp vào nền thi ca dân tộc, bây giờ nếu có ra sao thì cũng đủ rồi.”

Tôi thật cảm kích khi nghe những ý đó, lại nhớ đến ý kia, liền viết những dòng nầy, nhưng vẫn mong rằng, Mặc Giang sẽ không cho vào sách, dù tôi và tác giả thân quen đã hơn 23 năm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24377)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9374)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10949)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3610)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5312)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10472)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15012)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3475)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]