Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Sự đóng góp vào sự nghiệp dân tộc của tư tưởng Phật học thời Lý, Trần

27/02/201104:26(Xem: 2933)
10. Sự đóng góp vào sự nghiệp dân tộc của tư tưởng Phật học thời Lý, Trần

NHỮNG HẠT SƯƠNG
Thích Chơn Thiện
Sài Gòn, 2000

[10]

Sự Đóng Góp Vào Sự Nghiệp Dân Tộc
Của Tư Tưởng Phật Học Đời Lý, Trần

-ooOoo-

Hai triều đại Lý, Trần là thời kỳ hùng mạnh, hưng vượng của Việt Nam. Vào thời ấy có nhiều danh Tăng xuất hiện thường cố vấn các việc triều chính như các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Không Lộ, Thảo Đường, Khô Đầu, Viên Chiếu, Thông Biện, Thường Chiếu, (đời Lý), Viên Chứng, Nhất Tông, Đại Đăng, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang, Bảo Phát, Tông Cảnh, (đời Trần). Các vua tôi đời Lý, Trần phần lớn sùng mộ và thông hiểu đạo Phật. Các vị vua chứng ngộ thiền đạo Phật giáo và nhiếp chính tài ba như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Đời Lý thì Bắc thắng Tông, Nam bình Chiêm; đời Trần thì ba lần đại thắng quân Nguyên Mông, đoàn quân xâm lược hung bạo đã đánh bại nhiều nước ở Châu Aâu và Trung Hoa đương thời.

Tư tưởng chủ đạo của văn hóa Việt Nam thời Lý, Trần nổi bật là tư tưởng Phật học.

Về mặt quần chúng, Phật giáo đã để lại các ảnh hưởng sâu đậm qua các phần giáo lý phổ thông như:

- Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu) thuộc giới học, được xây dựng trên căn bản lòng từ bi, tránh gây tổn hại đến trí tuệ và hạnh phúc của tự thân và của tha nhân.

- Thập thiện giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời thô ác, không nói lời phù phiếm m ng ời, không nói hai lưỡi, không tham lam, không sân hận, không tà kiến) thuộc giới học mở rộng phạm vi của ngũ giới.

- Giáo lý nhân quả đến với quần chúng với ý nghĩa khái quát như: "ở hiền thì gặp lành", "gieo gió thì gặt bão", "gieo nhân gì gặt quả ấy", "sống gởi thác về", "sau đời sống này còn các đời sống khác tiếp nối", "ăn ở nhân đức thì có quả tốt trong hiện tại và mai sau, ăn ở độc ác thì đọa khổ"...

Niềm tin nhân quả bắt rễ sâu vào lòng quần chúng giúp quần chúng giữ mình sống lương thiện, tránh xa tham nhũng, móc ngoặc, lòng vị kỷ; yêu chuộng hòa bình, an lạc.

- Về giai tầng học thức, giáo lý định học của Phật giáo giúp quần chúng giữ tâm định tĩnh, sáng suốt trước các biến động của cuộc sống; giáo lý tuệ học soi sáng nhận thức chỉ hướng hành động tốt cho tự thân và xã hội.

- Đối với cấp lãnh đạo các triều đại, Phật giáo Việt Nam đã để lại một ảnh hưởng rất tích cực và to lớn mà bài khảo luận ngắn này sẽ điểm qua.

Sư Không Lộ (vị quốc sư đời Lý Thái Tông):

Trong bài thi cảm "Ngôn hoài" sư viết:

"Trạch đắc Long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"
(Thơ văn Lý Trần, Viện khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, 1977, tr 385)

Tạm dịch:

Chọn nơi địa thế đẹp mà ở
Vui thú tình quê quên sớm trưa
Có lần lên đỉnh núi cao
Kêu dài một tiếng lạnh không gian.

Chọn đất đẹp mà ở là ý nghĩa chọn địa thế thiên nhiên đẹp vừa là chọn nét đẹp của tư tưởng, tâm hồn. "hàn thái hư" như có nhà nghiên cứu sử đã bảo, là làm lạnh cái kiểu khí xưng đế của phương Bắc. Chẳng những thế, quốc sư Không Lộ tự cái tên của sư là đã nói lên con đường sống vô ngã của Phật giáo Việt Nam; tiếng nói vô ngã của Phật giáo vốn làm tê lạnh các hệ tư tưởng nhị nguyên đầy ngã tính. Tiếng nói vô ngã ấy đã là nhân tố khơi dậy sức mạnh đoàn kết và tự cường của dân tộc làm cóng lạnh đoàn quân hung hãn Nguyên Mông.

Thiền sư Pháp Thuận (từ đời Lê Đại Hành qua Lý):

Sư có học vấn uyên bác, thường lui tới triều đình cố vấn các việc triều đình dưới đời Lê Đại Hành và Lý Thái Tổ. Khi vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước thịnh suy như thế nào sư đáp:

"Quốc tợ như đằng lạc
Nam thiến lý thái bình
Vô vi cư diện các
Xứ xứ tức đao binh" (Thơ Văn Lý Trần... tập 1, tr 204)

Tạm dịch:

Ngôi nước như dây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi ngự cung điện
Đây đó hết đao binh.

Lời đáp của sư biểu lộ một tầm nhìn xa về lịch sử báo hiệu cho biết đất nước đang đi vào thái bình thịnh trị, vừa khuyên nhà lãnh đạo nên có thái độ xử thế "vô vi". Vô vi theo Phật giáo, là tích cực làm lợi ích cho dân cho nước mà tâm không vướng mắc tư dục, không tham ái, không chấp thủ. Được vậy thì đất nước sẽ hưởng thái bình lâu dài bền vững.

Thái độ sống ấy chính thiền sư thực hiện và bộc lộ qua hai vần thơ tiếp vận vần thơ của sứ Tàu Lý Giác: Lý Giác ngâm:

"Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha"

Sư tiếp:

"Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi tranh ba"

Tạm dịch:

Song song ngỗng một đôi
Ngưỡng mặt ngó ven trời
Lông trắng phô dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.

Đấy là hình ảnh biểu tượng Phật giáo đi vào cuộc đời, tích cực giúp đời mà không vướng ngại, không vướng mắc đời, như lông trắng và chân hồng của đôi ngỗng trên dòng nước.

Thiền sư Vạn Hạnh, cố vấn vua Lý Thái Tổ:

Sư đã giáo dục Lý Công Uẩn mở ra cơ nghiệp nhà Lý, bài thơ của sư thường được các nhà nghiên cứu Văn học Phật giáo Việt Nam nhắc đến là:

Thị chúng:

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
(Việt Nam PG sử lược, TT.Mật Thể, Minh Đức xuất bản, Huế, 1960, tr 120)

Tạm dịch:

Nói cho chúng Tăng biết:

Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu lại khô
Gẩm cơn suy thịnh lòng không sợ
Thịnh suy đầu cỏ hạt sương phô.

Dưới mắt của thiền sư Vạn Hạnh, dòng đời thì vô thường thân người thì mỏng manh, vận hưng thịnh suy của xã hội cũng theo dòng nhân duyên ấy mà trôi chảy. Thấy rõ sự thật ấy, lòng sư thanh thản chấp nhận, không lo âu, sợ hãi. Do lòng không sợ hãi mà thiền sư tự tại hành xử việc đạo, việc đời, tích cực lo cho nước, cho dân.

Có ý kiến cho rằng cái nhìn vô ngã, vô thường là tiêu cực, đẩy đưa con người đến tâm lý bi quan, đến chủ trương hư vô hóa cuộc sống. Thực ra cái nhìn ấy có tác dụng ngược lại, nó giải phóng tâm lý cố chấp, vị kỷ, và mở ra tâm lý vị tha, không câu chấp, tâm lý bao dung và sáng tạo. Cái nhìn vô thường cũng thế, đưa đến thái độ tích cực chấp nhận cuộc sống trần thế, đánh thức dậy lòng nhân ái, không tham lam, không sân hận.

Thiền sư Thiền Lão (mất năm 1037):

Vua Lý Thái Tông mến mộ sư, một hôm đến viếng và mời sư ra cố vấn, vua hỏi:

"Sư ở đây bao lâu rồi?"

- Sư đáp:

"Chỉ biết ngày tháng này
Nào hay xuân thu qua".

(Đản tri kim nhật nguyệt,
Thùy thức cựu xuân thu).
(VNPG Sử luận, Nguyễn - Lang, 174, tr 175)

- Vua hỏi tiếp: "Sư ở đây hằng ngày làm gì?"

- Sư đáp:

"Trúc biết hoa vàng đâu phải cảnh ngoài
Trăng trong mây bạc hiện rõ hình"

("Túy trúc hình hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.")
(VNPG Sử luận, Nguyễn - Lang,...tr 239)

Lời đáp đã bộc hiện một tâm hồn sống không vướng bận các ý niệm về không gian hay thời gian, sống ngay trong hiện tại và tại đây, vì sự thật là chính cuộc đời này mà vắng bóng tâm vị kỷ, chấp ngã. Từ chổ thấy ấy, các thiền sư vào đời tùy duyên giúp đời.

Vua Lý Thái Tông (1000 - 1054):

Nhà vua đã cho dựng chùa Diên Hựu (chùa một cột) với kiến trúc dân tộc: hoa sen nổi trên mặt hồ. Bấy giờ có 4 đại khí để lại cho xứ sở: Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền, Đỉnh Phổ Minh, và Tượng Quỳnh Lâm.

Vua tỏ ngộ Phật lý. Dưới đây là bài thơ nói lên sự tỏ ngộ của vua:

"Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Qúa hiện vị lai Phật
Pháp tánh bản tương đồng"
(Thơ văn Lý Trần,... Hà Nội, tập I, tr 242)

Tạm dịch:

Trí tuệ giải thoát là vô ngã
Người vô ngã ta cũng vô ngã
Chư Phật trong ba đời
Thể tánh đồng vô ngã.

Chỉ với những tâm thức nhuần thấm vô ngã mới dễ có thái độ sống phóng khoáng, không câu chấp sự tướng, kiến giải, dễ phát tinh thần đoàn kết, hòa hợp, và lòng nhân ái vị tha.

Lý Thánh Tông (1054 - 1072):

Vị vua nhân ái, công minh, đã đại thắng quân Tống và bình định quân Chiêm. Vua đã lập Ỷ Lan, một thôn nữ, lên ngôi vị Thái Phi rồi Hoàng Hậu, và đã giao cho Thái Phi, quyền nhiếp chính (bấy giờ Ỷ Lan mới hơn 20 tuổi đời) lúc Vua cất quân phạt Chiêm.

Vua căn dặn Ỷ lan, như là lời cẩm nang để lại, rằng:

Điều quý mà trẩm học được từ Phật giáo là: "Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định." (giữ tâm bất động giữa những cơn biến động. Lời căn dặn đã giúp Ỷ Lan thành công trong thời gian nhiếp chính.

Thời bấy giờ, Thái sư Lý Đạo Thành, nguyên soái Lý Thường Kiệt đều là những đại thần sùng Phật.

Thiền sư Ngộ Ấn:

Thiền sư Ngộ Ấn đã diễn đạt cùng một sở đắc như các thiền sư Lý Trần khác, nhưng diễn đạt với một ngôn ngữ riêng và đặt biệt:

"Diệu tính hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn"
(VNPG Sử luận, Nguyễn Lang,... tr 202)

Tạm dịch:

Thực tính là vô tính (như hư vô) khó nắm bắt
Nếu lẽ ấy thì đến không khó
Ngọc thiêu trên núi sắc thường tươi
Sen nở trên lò lửa mà vẫn thắm.

Những tư duy "logic" thì không đặt chân đến được các vần thơ trên. Những chủ trương cụ thể, thực tế theo lối chấp ngã hẹp hòi cũng trở nên xa lạ với lời lẽ của thiền sư Ngộ Aán, nói riêng, và xa lạ với ngôn ngữ thiền Việt Nam nói chung. Những tư duy siêu hình theo kiểu siêu hình học phương Tây lại càng xa lạ hơn nữa đối với các vần thiền thi ấy.

Từ nhận thức vô ngã đó, người đời và các thiền sư rộng đường hành xử để đạt được mục tiêu đem lại an lạc, thái bình và hạnh phúc cho nhân dân, xứ sở, xây dựng con người và xã hội đầy tính người và tình người.

Thiền Sư Thông Biện và Thường Chiếu:

Theo tài liệu Phật giáo sử của Nguyễn Lang (VNPG Sử luận, tập I) hai vị thiền sư này muốn xiển dương con đường thật sự thiền định của Phật giáo Việt Nam, hai vị đã đặt Tịnh độ và Mật tông ngoài tập Thiền Uyển Tập Anh, ngoài hệ giáo lý truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Điều đó gợi cho chúng ta một số suy nghĩ liên hệ đến các lý do suy vong, của thời cuối đời Lý và cuối đời Trần. Có một sự kiện lịch sử khiến chúng ta phải ưu tư là khi mà Tịnh độ tông và Mật tông phát triển mạnh cuối đời Lý và cuối đời Trần thì hầu như sức mạnh tự cứu tự lực, tự cường, tự tri bị khuất lấp, dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam từ đó đi lần vào suy yếu theo chiều suy tàn của hai triều đại ấy. Khi thái phi Ỷ Lan hỏi sư Thông Biện về gốc gác của Phật giáo Việt Nam, sư đã nêu rõ đạo Phật Việt Nam xuất hiện trước Phật giáo Trung Hoa. Ở đây có tiết ra một tình tự dân tộc từ những dẫn chứng sử liệu Phật giáo Việt Nam của sư Thông Biện.

Trần Thái Tông:

Khi nhà vua bỏ ngôi báu trốn vào núi Yên tử xuất gia, thiền sư Viên Chứng khuyên vua rằng: "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta". Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện thì đó là Phật.... Đã làm vua thì không còn có thể theo ý riêng của mình được nữa. Phải lấy ý muốn của muôn dân làm ý muốn của mình, phải lấy lòng dân làm một lòng của mình. Nay dân muốn vua về, thì vua không về không được".

Vâng lãnh lời dạy của thiền sư, vua Thái Tông đã trở về vương vị, vừa nhiếp chính, vừa học, vừa tu niệm giải thoát. Vua là vị vua đầu tiên của Việt Nam phục vụ nhuần nhuyễn hai mặt đạo và đời, mở ra hướng đi cho Phật giáo Việt Nam.

Nội dung các tài liệu biên soạn của Trần Thái Tông, như Thiền Tông chỉ nam, Khóa Hư lục, Kim Cương tam muội kinh chú giải, Lục thời sám hối khoa nghi, Bình đẳng lễ sám văn, Thi tập, nêu rõ giáo lý rất truyền thống của Phật giáo là Giới, Định, Tuệ, Ba pháp ấn với cái nhìn rất thoáng của Đại thừa. Tiêu biểu như đoạn trích dẫn sau đây trong bài Phổ Khuyết Sắc Thân (Khóa Hư Lục):

".... Nếu chưa đạt tâm Phật, và ý Tổ thì trước hết phải trì giới niệm kinh. Đến khi đạt tới trình độ Phật cũng không mà Tổ cũng không thì còn giới nào cần trì, kinh nào cần niệm? Lúc đó thì dù cư trú trong thế giới ảo sắc mà thật ra là đã cư trú trong thế giới chân sắc, ở trong phàm thân mà kỳ thực đã ở trong pháp thân".

Trình độ thấy biết Phật cũng không mà Tổ cũng không là trình độ rời khỏi ý niệm về mọi ngã tướng đi vào chánh niệm chánh tưởng vô ngã mà mỗi người có thể tự thể hiện trên đời này.

Tinh thần giáo lý cốt lõi được vua giới thiệu vẫn là vô ngã tướng, vô ngã tưởng.

Tuệ Trung Thượng Sĩ:

Thượng sĩ là tướng đời Trần, sống đời sống gia đình, đắc pháp thiền với thiền sư Tiêu Diêu, về sau là bậc thầy dạy đạo thiền cho vua Trần Nhân Tôn. Qua tập Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ Lục, ngôn ngữ của Thượng Sĩ siêu việt, cao vời bậc hiện một sở chứng thâm trầm về thiền định và trí tuệ giải thoát.

Một vị Tăng hỏi Thượng Sĩ: "Thế nào là pháp thân thanh tịnh?" Thượng Sĩ đáp:

Ra vào đống phân ngựa
Nghiên tầm vũng nước trâu"
(VNPG Sử luận......tr 284)

Lời đáp là một ngôn ngữ thiền đánh thức vị Tăng. Pháp thân thanh tịnh thì vô ngã, ở ngoài ngôn ngữ diễn đạt. Hỏi hay trả lời về thực tướng vô ngã tướng sẽ rơi vào thế giới khái niệm của ngã tướng, ngã tướng làm cấu uế tâm thanh tịnh (chân tâm). Vì vậy, nên Thượng Sĩ bảo:

"Ra vào đống phân ngựa
Nghiên tầm vũng nước trâu"

Vị Tăng hỏi tiếp: "làm thế nào để thể nhập?"

Sư đáp: "Bỏ hết khái niệm sạch, dơ thì tự khắc đó là pháp thân trong sạch".

Thượng sĩ đã chỉ rõ lối vào thực tướng cho vị Tăng là đơn giản buông bỏ các khái niệm về ngã tướng, ngã tính. Trên thực tế, để buông bỏ tập quán tư duy hữu ngã, hành giả phải trãi qua một chặng đường tu tập Giới, Định, Tuệ để loại trừ tham ái (dục ái, hữu ái, vô hữu ái).

Lời đáp trên của Thượng sĩ phù hợp chặt chẽ với lời dạy của đức Phật được kiết tập trong Nikàya và A-hàm, vừa gián tiếp giới thiệu vô ngã tướng qua một thứ ngô ngữ đầy sáng tạo.

Cuộc đời dung tục, tích cực, phóng khoáng và giải thoát của Thượng Sĩ là một sự biểu hiện của một tâm hồn giác ngộ vô ngã tướng ấy. Sở đắc, sở chứng của Thượng Sĩ đã được truyền thụ qua Vua Trần Nhân Tôn, đệ nhứt tổ của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.

Trần Nhân Tôn (1258 - 1335):

Vua Trần Nhân Tôn ở ngôi vua từ năm 12 tuổi, đến năm 36 tuổi lên làm Thái Thượng Hoàng 5 năm rồi xuất gia được 10 năm thì tịch. Thời gian tại vị, vua cùng các danh tướng nhà Trần hai lần đại phá quân Nguyên - Mông xâm lược. Vua xuất gia tại chùa Hoa Yên, núi Yên Tử với đạo hiệu Hương Vân đầu đà, nhân dân thường tôn kính gọi sư là Điều Ngự Giác Hoàng. Điều Ngự mở ra dòng thiền Trúc Lâm Việt Nam và trở thành sơ Tổ Trúc Lâm.

Sinh thời Điều Ngự chủ trương thống nhất tam giáo (Phật-Lão-Nho) để thống nhất ý chí của toàn dân. Sứ thần Ngô Sĩ Liên, dủ thiên Nho học, cũng đã có nhận định rất tốt về Điều Ngự: "Nhân Tôn trên thì thờ Tử Cung để tỏ đạo hiếu, dưới thì dùng người hiền lập nên võ công, nếu không phải là bậc nhân minh anh vũ thì sao được như thế?" (VNPG Sử luận, tr, 301)

Đời sống phạm hạnh của Điều Ngự thì nghiêm tịnh, nhưng tư tưởng thì rất phóng. Điều Ngự đã để lại nhiều sáng tác phẩm và tư tưởng Phật học Việt Nam đời Trần và cả cho nhiều thế kỷ Phật giáo Việt Nam về sau như:

- Thiền Lâm thiết chủy Ngữ Lục,

- Trúc Lâm Hậu Lục,

- Thạch Thất Mị Ngữ,

- Đại Hương Hải Ấn thi tập,

- Tăng già Toái sự,

- Cư Trần lạc đạo (thi):

"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
(VNPG Sử luận...tr, 316)

Tạm dịch:

Sống đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt nghĩ liền
Châu báu trong nhà đừng chạy kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

Theo kinh nghiệm chứng ngộ của Điều Ngự, với tâm vô trước (vô tâm) thì toàn thể cuộc đời là đạo. Tâm vô trước ấy là tâm thiền. Khi thiền tâm có mặt, thì toàn thể cuộc sống là thiền. Con đường đến với đạo, với thiền tâm là con đường quay trở về tự thân, trở về với tâm niệm vô chấp, vô ngã. Đây là tông chỉ của thiền định, và của thiền định Phật giáo Việt Nam, rất thiết thực và rất nhân bản.

Trước giờ viên tịch Điều Ngự nói lên bài kệ dạy chúng rất là truyền thống Phật giáo và rất duyên sinh:

"Nhất thế pháp bất sinh
Nhất thế pháp bất diệt
Nhược nhơn như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu".
(VNPG Sử luận...,tr,333)

Tạm dịch:

Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt
Nếu hiểu rõ như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đến, đi gì?"

Qua bài kệ thị tịch ấy, chúng ta hiểu rằng các ngã tướng (các pháp) đều do các nhân duyên mà sinh và do các nhân duyên mà diệt. Chỉ các nhân duyên đến hay đi, nào có mặt sự sinh diệt của các ngã tướng ấy. Thực pháp thì cũng vô minh vì nó vô ngã tướng. Nếu hiểu rõ hết thảy pháp đều là pháp giới duyên khởi thì liền thấy rõ pháp tánh và thấy pháp tánh là thấy Phật vậy.

Đối với Điều Ngự, và đối với các tu sĩ Phật giáo mà Điều Ngự mong ước các vị thấy rõ vô ngã pháp, thì sinh diệt không phải là vấn đề vướng bận. Vấn đề chính là sự liễu ngộ lẽ duyên sinh, vô ngã, liễu ngộ thực tướng, vô tướng.

Do liễu ngộ vô ngã mà lìa xa hết tham, sân, si lìa xa mọi nhân khổ đau, tự thân được hạnh phúc giải thoát ngay trong hiện tại. Do liễu ngộ vô ngã mà phát khởi tâm đại từ, đại bi cứu giúp trần thế. Do liễu ngộ vô ngã mà có thái độ vô chấp, dễ dàng hể hiện đoàn kết, thống nhất các dị biệt.

Trên đây là một số nét tư tưởng điển hình của Phật giáo Lý Trần. Nếu tiếp tục khảo cứu các công trình sáng tác, thi ca, kệ thiền khác của đời Trần Lý thì chúng ta sẽ tìm thấy cùng một nội dung tư tưởng ấy. Nội dung đó là sở đắc, sở chứng của các thiền sư. Sở đắc sở chứng của các thiền sư là sự sinh khởi trí tuệ nhận sự thật rằng mọi hiện hữu đều không có tự ngã. Vì sự thật chỉ có một, nên sở đắc, sở chứng chỉ một, dù được diễn đạt dưới nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau.

Tại đây, có ý kiến cho rằng dân tộc Việt nam đang mong chờ Phật giáo Việt Nam đóng góp cụ thể bằng tài sản, của cải, sức lực, kiến trúc, điêu khắc... hơn là các tư tưởng về vô ngã, từ bi và thiền định trừu tượng và siêu hình ấy.

Chúng tôi thiết nghĩ rằng cái giá trị cao hơn những công trình kiến trúc, điêu khắc... là những gì mà các công trình ấy nói lên. Cái giá trị cao hơn những gì ấy đã được nói lên là chính thành quả mà xã hội thể hiện những gì ấy vào cuộc sống. Nhìn vào những thành quả Phật giáo Việt nam đã đóng góp vào lịch sử đời Lý, Trần chúng ta sẽ nhận ra giá trị tích cực cụ thể của cái những gì ấy.

Viết về chiến thắng quân Nguyên Mông đời Lý Trần, Viện sử học Hà Nội ghi:

- "Các cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo đã làm cho đất nước thân yêu của chúng ta nhiều lần xơ xác tiêu điều. Nhưng mỗi lần như vậy sức mạnh Việt nam lại trỗi dậy chiến thắng và phục hồi mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất, đưa dân tộc ta tiến lên những bước nhảy vọt kỳ diệu. Thời đại Lý, Trần là một trong những giai đoạn điển hình như vậy". (lời tựa của tập Xã hội Việt Nam thời Lý, Trần, Hà Nội, 1981)

- "Sự kiện lịch sử kỳ diệu ấy đã làm cho nhiều nhà sử học tiến bộ trên thế giới khi nghiên cứu về Việt Nam mong muốn làm sáng tỏ nguồn gốc nảy sinh ra chiến công lừng lẫy đó, tức là tìm xem nó đã nảy sinh ra trên một cơ sở kinh tế, xã hội nào? Nó là sản phẩm của một cuộc sống tinh thần, vật chất như thế nào?" (lời tựa của tập Xã hội Việt Nam thời Lý, Trần, Hà Nội, 1981)

Nếu kết luận rằng sức mạnh chiến thằng quân Nguyên Mông, thời Trần là sức mạnh vật chất, thì nhiều nước ở Châu Âu và nhà Tống (Trung Hoa) không có sức mạnh vật chất đó sao mà vẫn thảm bại trước quân Nguyên Mông?

Nếu nói sức mạnh đó là sức mạnh tinh thần của Nho, Lão thì đó là sức mạnh đích thực của nhà Tống tại sao nhà Tống lại đại bại trước đại quân Nguyên Mông?

Kết luận sau cùng về yếu tố quyết định chiến thắng quân Nguyên Mông thời Trần phải là sức mạnh tinh thần của Phật giáo Việt Nam. Hẳn nhiên là sức mạnh tinh thần ấy đi đôi với sức mạnh tinh thần dân tộc, cộng với sức mạnh quốc phòng và kinh tế của xã hội ta.

Đó là những gì mà bài viết thô thiển này muốn đề cập./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 19906)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 12331)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8561)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5540)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 18236)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3598)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7222)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 19225)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13521)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4603)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]