Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai bút đêm giao thừa

24/01/201202:02(Xem: 3009)
Khai bút đêm giao thừa

Viết một câu thật hay vào giờ khắc thiêng liêng của đất trời!Ý nghĩ này ám ảnh tôi một thời gian dài, hình như từ thời trung học chođến hết tuổi hăm.

Cáimầm được gieo từ cô giáo dạy văn. Trước khi nghỉ Tết cô lì xì đám học trò lau nhau lóc chóc một đề bài luận văn chỉ vỏn vẹn hai chữ “Khai bút”. Tụi này kêu trời, cô bảo cứ thử đi, giao thừa là thời khắc thiêng liêng, cứ viết ra suy tư của mình, rồi sẽ thấy linh nghiệm. Kể ra hồi nhỏ tôi cũng dễ bị dụ khị. Hoặc trẻ con nào cũng mê tín hoang đường.

Đêmgiao thừa ở nhà tôi đơn giản. Ăn xong bữa cơm chiều ba mươi là kể như năm đã thành năm cũ, mọi chuyện năm cũ kể như cho qua. Nhà cửa đã dọn dẹp bày biện, mọi người tắm gội, mặc quần áo mới. Để tiêu bớt thịt cá trong bụng, tôi đi một vòng qua mấy chỗ bán bông, coi cái gì ế thì mua dùm một hai chậu. Hồi trước, ba tôi còn buôn bán, ông rất kỵ cuối năm rinh đồ ế của người ta về nhà mình. Thấy tôi ôm về một chậu cúc hơi héo héo (người ta lo bán tống bán tháo nên không tưới nước), ba tôi quát thét dữ tợn, quăng chậu hoa ra đường, lấy chổi quét lia lịa cửa ngõ như xua đuổi bóng vía con ma ế.

Tôibị tổn thương ghê lắm. Ở tuổi tập làm thiếu nữ, trau chuốt câu văn hay, nâng niu cái đẹp, chuộng nét thanh tao, tôi sững sờ và đau đớn trước cách đối xử với hoa quá ư phũ phàng của ba tôi. Sau này càng lớn tôi càng nhìn thấy rõ hơn ở trong lớp võ thô lỗ của ba là một tâm hồn nhạy cảm cao thượng. Nhưng như những người buôn bán khác ông có những điều mê tín và tuân thủ những nghi lễ tập tục của giới mình. Gặp người nặng bóng vía mở hàng thì phải đốt vong xả xui, gặp con ma ế thì phải “làm dữ” cho nó sợ mà không đeo bám mình.

nguoiduatin-viet_jpg

Nhưngmười mấy tuổi đời làm sao tôi hiểu? Buổi chiều ba mươi đó, tôi ngồi thu lu trên căn gác buồn tủi thân phận mình, sinh ra dưới vì sao xấu, mẹ mất sớm, cha hung dữ độc tài. Trời xâm xẩm tối là ông lùa hết ba đứacon gái lên gác, đóng cửa cài then. Cho dù đó là tối ba mươi Tết, trong xóm râm ran mấy hội kêu lô tô. Già trẻ lớn bé khắp xóm đều tụ lạimấy hội lô tô mà khoe áo khoe giày, rủ rê mai đi chơi Tết ở đâu. Các em tôi chỉ còn nước đi ngủ sớm với chút háo hức sẽ được lì xì sau khi cúng giao thừa. Ba tôi luôn đánh thức con cái dậy vài phút trước nửa đêm, bắt rửa mặt cho tỉnh táo, phát cho mỗi đứa mấy cây nhang, bắt quì lạy trời đất, khấn vái theo ba tôi. Ông cầu cho buôn may bán đắt, con cái mau lớn mạnh giỏi, nhà cửa yên lành.

Tôithao thức với những ưu tư tuổi trăng rằm. Trong căn nhà nhỏ vách ván, trong con hẻm nhỏ người chen chúc, những phút yên tĩnh hiếm hoi là giấcgần nửa đêm, sau khi cái chợ đêm đầu ngõ đã tàn, trước khi những ngườibán rong thức dậy bào đủ đủ, xay đậu nành, nấu xôi, xào mì, pha cafe… để kịp dọn hàng ra bán lúc bốn năm giờ sáng. Thời gian ngắn ngủi mọi người chìm trong giấc ngủ là lúc tôi cảm thấy được tự do. Tôi thức với cảm giác được sống với riêng mình, trong cõi riêng tư của mình. Tôi quên đi mấy đứa em nằm ngủ say trong mùng, tôi chiếm lĩnh hoàn toàn căngác với ô cửa sổ mở ra những mái nhà tôn nhấp nhô.

Emtôi nói nó thỉnh thoảng thức giấc, thấy tôi đi phất phơ quanh gác cườicười hay ngồi vật dựa thổn thức như bà khùng. Tôi mắc cỡ nạt ngang chối phắt. Khi em tôi tới tuổi dậy thì, thỉnh thoảng tôi cũng bắt gặp tại trận tụi nó mơ màng trong thế giới tưởng tượng của riêng mình. Tôi không dám động chạm đến thế giới đó. Đó là cái riêng tư tuyệt đối mà nóhay tôi có được trong cuộc sống chung dưới mái nhà không có buồng riêng và không có gì là của riêng ai. Nhật ký của tôi bị tụi nó lục ra coi rồi xé đi khi đọc tới chỗ có dính tới tụi nó. Nên tôi sớm hiểu là cái thực sự riêng tư là cái mãi mãi ở trong tâm tưởng của mình.

Đêmgiao thừa, cúng xong và nhận được lì xì rồi, hai đứa em tôi đi ngủ tiếp. Tôi mở tập ra để viết bài luận “Khai bút”. Từ cửa sổ bay vào mùi khói nhang và tiếng xe tiếng người trong xóm đi chùa. Rồi đêm lắng dần. Tôi thò đầu ra nhìn lên trời thăm thẳm. Đầy sao. Người ta nói “tối như đêm ba mươi”, nhưng thực ra Tết nhằm mùa khô phương Nam, trời không mưa, ít mây, nửa đêm là lúc bầu trời sáng long lanh vô vàn tinh tú.

nguoiduatin-khaibut-vnweblogs_jpg

Trínhớ thích chơi trò đánh lừa. Có khi mình nhớ như in một điều không đúng như thực tế. Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi: “Chú ý chính tả và chấm câu”. Vì được cô giáo tập cho thói quen giữ gìn những bài luận văn, ít nhứt cho đến khi hết niên học, nên tôi đã giữ được bài đó trong nhiều năm. Cho đến ngày dọn ra khỏi căn gác trong xóm tản cư, tôi còn cầm nó lần cuối cùng, đọc lại lần cuối cùng, rồi mới cho nó hóa thân.

Sựthật là bài đó tôi viết vào mùng năm hay mùng sáu, khi đi học lại và tới hạn nộp bài. Tôi viết vội vàng trong tâm thế một học sinh làm bài, hơi miên man, nghĩ được ý gì là chớp lấy viết ngay, đề là “Khai bút” mà,đâu có yêu cầu hay giới hạn nào cụ thể. Tôi đã nộp bài viết đó thế chobài khai bút thực sự. Nhưng tôi đã không (chịu) nhớ chi tiết đó.

Chođến một hôm, giữa mùa đông buốt giá xứ người, trong một căn nhà cũng nhỏ nhưng không có gác, khung cửa sổ rộng đóng chặt hai lớp kính, lửa trong lò sưởi cháy bập bùng, một người đang thiu thiu ngủ trên ghế bành chợt vùng bật dậy, ngơ ngác. Chỉ là giấc mơ ư? Sao có thể chỉ là giấc mơ? Tôi đọc rõ từng chữ từng câu trên tờ giấy mà. Tôi thấy rõ ràng cô gái còng lưng, mím môi, cắm cúi viết một mạch. Tôi nghe cả tiếng tim cô đập trong lồng ngực, cảm được nhiệt độ trong cơ thể cô tăng lên, đầu côváng vất, mắt long lanh. Cô viết say sưa hết bốn trang của tờ giấy đôimà không hề ngẩng đầu lên một lần.

Niềmhân hoan hạnh phúc của cô gái thậm chí còn dư âm trong tôi sau khi thức giấc. Nhưng câu chữ trên trang giấy nhòa nhạt dần, càng cố nhớ càng quên. Khi cô gái đọc lại những gì vừa viết, nét mặt cô bình tĩnh hơn, thân nhiệt hạ xuống. Cô lại mím môi, đôi mắt rời những dòng chữ, ngước nhìn những vì sao. Rồi, trước khi tôi thảng thốt thét vỡ giấc mơ,không kịp nhào tới chụp tay cô ngăn lại, cô gái đã xé vụn tờ giấy.

Lúcđó cô đã hành động theo một linh cảm mà ba bốn chục năm sau tôi mới trải nghiệm từ từ: có những giờ khắc thiêng liêng, con người có thể giaocảm với đất trời, bùng lên những cảm xúc nghĩ suy rực rỡ, là mình trọnvẹn trong cõi riêng tư. Khoảnh khắc đó không thể chia sẻ với ai cả.

Lý Lan
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2011(Xem: 3769)
Vài năm qua trên báo chí và sách vở xuất hiện một số thảo luận về câu niệm (Nam Mô) A Di Đà Phật hay (Nam Mô) A Mi Đà Phật. Có lẽ khởi đầu từ cuốn "Hương Sen Vạn Đức" của HT Thích Trí Tịnh1(2006), và "Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp" của tác giả Diệu Âm - Diệu Ngộ được ghi nhận trong bài viết trên mạng Thư Viện Hoa Sen (21/6/2011). Phần này chú trọng đến sự khác biệt ngữ âm giữa Di (trong A Di Đà Phật) và Mi (trong A Mi Đà Phật) và không đi vào chi tiết các giáo pháp liên hệ cũng như phạm vi tâm linh tín ngưỡng dân gian. Thanh điệu ghi bằng số ngay sau một âm như số 3 trong min3 hay mǐn (giọng Bắc-Kinh hay BK ghi theo hệ thống pīnyīn thông dụng hiện nay), không nên lầm với số ghi phụ chú (superscript) như min3; dấu hoa thị * (hình sao/asterisk) đặt trước một âm tiết để chỉ dạng cổ phục nguyên (reconstructed sound). Hi vọng bài này cho thấy phần nào khuynh hướng ngạc hóa nói riêng, văn hóa ngôn ngữ Phật giáo nói chung đã đóng góp không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại.
19/09/2011(Xem: 8880)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả, kể cả những kẻ khuất mặt đang sống trong tối tăm mà lòng lúc nào cũng sục sôi căm thù nữa.
28/08/2011(Xem: 3176)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
11/08/2011(Xem: 3388)
Em ơi, anh đã từng đọc những vần thơ đầy sự day dứt của nhà thơ Trụ Vũ khi ông mong muốn diễn đạt một tình yêu dành cho mẹ nhưng đành phải bất lực trước sự giới hạn của ngôn từ và hình ảnh:
29/06/2011(Xem: 8655)
Sách do nhà xuất bản Nguồn Sống ấn hành
02/06/2011(Xem: 3915)
Dù biết rằng rồi một ngày Thầy cũng phải ra đi nhưng con vẫn bàng hoàng xúc động khi nhận được hung tin ! Viết về Thầy, không biết con có diễn tả đầy đủ hết mọi ý nghĩ của mình bởi vì con cũng đã có nhiều kỷ niệm dễ thương về Thầy mà mỗi lần nhớ lại, lòng không khỏi dâng lên niềm xót xa !
30/05/2011(Xem: 11690)
Chùa tôi nho nhỏ bên làng Bên dòng sông quyện bên hàng thông xanh Có tre mấy lũy yên lành Có chim ca hót trên cành líu lo
25/05/2011(Xem: 3134)
Một lần nữa phải cám ơn Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác và anh Chủ bút Phù Vân đã cho chúng tôi có được cơ hội gặp nhau - cùng có chung một đứa con tinh thần - từ đó sợi dây thân ái càng ngày càng ràng buộc và lòng thương yêu nhau càng gắn bó nhiều với thời gian ! Chúng tôi - những cây bút nữ - mỗi đứa ở một phương trời đã quy tụ về dưới mái chùa Viên Giác vào một ngày tháng 8 năm trước, để rồi khi chia tay vẫn còn lưu lại trong lòng nhau những luyến lưu bịn rịn.
24/05/2011(Xem: 8431)
Lá Diêu Bông không hiện hữu trên trái đất này thì làm sao ai mà tìm thấy được và như thế thì chẳng khác nào người đẹp gieo cầu trong gió lớn, làm lỡ duyên người con gái thơ ngây! Tôi viết vài dòng về Lá Diêu Bông vì thấy lyric và nhạc của Trần Tiến mang tính mẫn cảm thật đẹp về tình yêu hơn lyrics và nhạc của Phạm Duy về cùng một bài thơ, Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm
23/05/2011(Xem: 3809)
Khi Phạm Thiên Sahampati biết được đức Phật đang phân vân lưỡng lự không muốn thuyết giảng giáo pháp mà Ngài vừa chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề cho thế gian đau khổ này với lý do: “Con người còn vấn vương trong tham ái và sân hận, không dễ gì lãnh hội được giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ, sẽ không thấy được giáo pháp, bởi giáo pháp đi ngượi lại tham ái, giáo pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và tế nhị”[1].
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]