Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

13/01/201201:40(Xem: 17372)
Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

duc-phat-030

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

Yasurani Kawabata - Nguyễn Văn Nho biên dịch



Lời người dịch:

Phần trích dịch dưới đây nằm trongđoạn đầu của bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Yasunari Kawabata, đọc tại Hàn Lâm viện Thụy Điển vào tháng 12 năm 1968,với nhan đề “Japan, the Beautiful andMyself”.(1)Tanka (đoản ca: 短 歌), là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, gồm 31 âm tiết. Kawabata muốn giới thiệu những bài thơ này để nêu bật tinh thần Nhật Bản về thơ catrong bài diễn văn của mình. Người dịch những bài thơ này đã mạo muội phóng tácthành những câu thơ mang hơi thở Việt Nam. Rõ ràng đó là việc làm dễ mắcphải sai lầm, một phần, vì qua ngôn ngữ thơ ca, dịch phẩm phải giống như việctái tạo một sản phẩm mà điều may mắn hy vọng đạt được là tinh thần cốt tủy củasản phẩm cũ không sai lệch là bao, phần khác, người dịch đã chuyển từ bản dịchAnh ngữ chứ không phải từ nguyên ngữ Nhật Bản. Đó là lý do người dịch viếtnhững lời này, với niềm mong mỏi bạn đọc bỏ qua cho những sai lầm lệch lạc, vàđón nhận bài viết này nhẹ nhàng như cơn gió nhẹ thoảng qua, không ảnh hưởng gìđến ai cả.

Mỗi lần có ai đó nhờ tôi viết vài câu thư pháp, tôithường viết hai bài thơ sau đây, bài thứ nhất của tu sĩ Dogen (1200-1253), màông ta gọi là Bản lai diện mục (Innate Spirit), và bài thứ hai, của tu sĩ Myoe(1173-1232).
“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the moon, and in winter the snow, clear, cold”.(2)
Mùa xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề.
“The winter moon comes from the clouds to keep mecompany.
The wind is piercing, the snow is cold”(3).
Trăng ngời ngọc sau làn mây hiển hiện
Để cùng tôi qua mộng thực đôi bờ
Ngọn gió buốt như hòa trong thớ thịt
Trắng mênh mang màu tuyết lạnh hoang sơ.

Trước bài thứ hai, Myoe ghi thêm những dòng sau,như một lời giải thích cho ý nghĩa chủ đạo của bài: “Vào đêm 12 tháng 12 năm1224, mặt trăng đang ẩn khuất sau làn mây. Tôi bước vào điện Kakyu để ngồithiền. Lúc nửa đêm, tôi ngừng thiền định, bước ra ngoài sảnh điện để đi xuốngtầng dưới, tôi bắt gặp ánh trăng hiện ra sau màn mây và lan tỏa bàng bạc trêntuyết trắng. Và ánh trăng kia đối với tôi như một bạn đồng hành, đến nỗi, tiếngchó sói tru lên dưới thung lũng cũng chẳng hề làm tôi khiếp sợ. Rồi lúc sau,tôi rời hạ điện bước ra ngoài, ánh trăng lại khuất vào trong mây. Khi tiếngchuông ngân báo hiệu giờ cầu kinh lúc tàn đêm, tôi lại đi lên sảnh điện, ánhtrăng đã dõi theo tôi trên con đường tôi bước. Tôi lại ngồi thiền, mặt trăngnhư đuổi theo mây để sau cùngchìm khuất trong ánh mặt trời đang hồng lên cho ngày mới, mặc dầu vậy, dườngnhư với tôi, ánh trăng kia vẫn còn theo tôi trong tâm tưởng như một bạn đồnghành bí mật”.

Sau bài thơ đã dẫn ở trên, là bài thơ sau, mà cóthể đoạn cuối những lời dẫn của Myoe đã cho thấy rằng ẩn ngữ một vầng trăng đãkhuất dần sau núi kia vẫn còn ngân vang trong lòng tác giả:

“I shall go behind the mountain. Go there too, Omoon.
Night after night we shall keep each othercompany.”(4)
Ta sẽ về bên kia núi, Trăng ơi!
Em cũng về theo, mộng song hành
Đêm lại rồi đêm ta sánh bước,
Em là ta hay ta lại là em?

Một lần khác, có thể là sau những thời khắc thiềnđịnh, hoặc khi bước đi lúc trời rạng sáng trên đường về chánh điện, Myoe đãviết thế này: “Vừa mở đôi mắt ra sau thời gian thiền định, tôi đã bắt gặp vầngtrăng lúc trời tảng sáng, ánh trăng dìu dịu qua cửa sổ. Tôi cảm thấy ánh sángdường như đang ngập tràn đến cả những góc phần tăm tối nhất của tâm hồn mình,và dường như ánh sáng đó đến từ ánh trăngmuôn thuở”. Theo đó, Myoe đã viết bài thơ:

“My heart shines, a pure expanse of light;
And no doubt the moon will think the light itsown.”(5)
Sáng cả lòng ta dòng tinh khiết
Hay chính là trăng nhập cõi hồn?

Myoe thường được mệnh danh là thi sĩ của ánh trăng,bởi những dòng thơ trăng thanh thoát, bởi những dòng thơ như sự thảng thốt diệukì, như tiếng kêu ngây thơ tự nhiên bật ra tâm hồn, như sự hứng khởi tuôn tràokhông mục đích:

“Bright, bright, and bright, bright, bright, andbright, bright.
Bright and bright, bright, and bright, brightmoon.”(6)

Trong ba bài thơ về ánh trăng, từ nửa khuya đến lúctrời rạng sáng, Myoe đã tuân thủ khuynh hướng thi pháp mà Saigyo đã sử dụng.Saigyo cũng là một thiền sư - thi sĩ, người đã tại thế vào khoảng 1118 đến1190, ông đã nói: “Dù tôi có làm thơchăng nữa, tôi vẫn không nghĩ về chúng như là những bài thơ tôi đã soạn”.(7) Trong bamươi mốt âm tiết, ông đã tạo nên một bài thơ, trung thực, trực chỉ vào thực tạisinh động, dường như thể ông với trăng là một, chứ không đơn thuần là “đồnghành với trăng”. Nhìn trăng, ông trở nêntrăng, và trăng cũng chính là ông khi nó là đối tượng được ngắm nhìn. Ông chìmvào thiên nhiên, và ông trở thành một cùng nhiên giới. Ánh sáng từ trái timtrong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gầnrạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng dù ngày lên hửngđỏ một góc trời. Như ta đã thấy tronglời dẫn của Myoe trước bài thơ nói trên, ở đó, ánh trăng mùa đông đã trở thànhbạn đồng hành, nó chính là tâm của vị thiền sư, một ánh trăng đã từ sau làn mâytỏa sáng rồi chìm vào bầu trời tôn giáo và triết học, vĩnh viễn, ánh trăng vàthiền sư đã lan tỏa vào nhau trong một hòa điệu tuyệt vời, mà bài thơ bất quáchỉ như một bật thốt tình cờ để diễn tả nên điều rất khó diễn bày.

Đó cũng là lý do mà tôi nghĩ đến bài này đầu tiênkhi có ai nhờ viết cho một bức thư pháp, với tôi, cảm xúc của bài thơ thật nhẹnhàng phiêu hốt, một niềm đam mê thật bay bổng khinh an. Ánh trăng kia giữa bầutrời đông tuyết, nấp sau mây rồi hé lộ dần, rồi lại núp sau mây và lại hiểnbày, tỏa sáng trên mỗi bước chân ta, khiến ta không còn sợ sói dữ. Phải chăng,hỡi trăng ơi, gió chìm vào trong em, gió lạnh mơn man em và tuyết trắng khônglàm em buốt giá? Tôi chọn bài thơ này, quả thực, tôi đã chọn một bài thơ ấmnồng, sâu lắng, bài thơ của niềm đam mê thanh thoát, trong tĩnh lặng khôn dò,trong thảng thốt suy tư ăm ắp cả một tinh thần Nhật Bản. Tiến sĩ Yashiro Yukio,một nhà nghiên cứu nổi tiếng về nhà danh họa Botticelli(8), một học giả uyên thâm về nghệ thuật từ cổ chí kimvà từ Đông sang Tây, đã đúc kết tinh thần nghệ thuật Nhật Bản đặc trưng qua chỉmột câu thơ: “Ta nghĩ đến bạn bè ta mỗi khi nhìn hoa, ngắm tuyết, ngó trăngthanh”.

Mỗi khi nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của tuyết, mỗi lầnthưởng ngoạn ánh trăng tròn vời vợi, hay say đắm trước vẻ xinh tươi của nhữngkhóm anh đào, mỗi khi để lòng chìmtrong các bức họa hay bị đánh thức bởi vẻ mỹ miều của bốn mùa thay sắc, tathường nghĩ đến những người gần ta nhất, những kẻ thương yêu, và trong ta khaokhát niềm ước mong chia sẻ cảm giác hoan lạc này. Chính kích thích của mỹ cảmđã đánh thức các cảm xúc trong ta, đánh thức niềm khát khao đồng hành, khátkhao những mối chân tình huynh đệ, và khi đó, từ “bằng hữu” (comrade) trở thànhđặc trưng đầy ý nghĩa của hai tiếng “con người” (human being). Tuyết, trăng,những khóm hoa, những từ ngữ diễn tả bốn mùa, trong truyền thống Nhật Bản, đólà những từ ngữ hòa quyện vào nhau để nêu bật lên vẻ đẹp muôn thuở của núi,sông, cây cỏ, để diễn đạt thiên nhiên sâu lắng và muôn hồng nghìn tía, cũng nhưdiễn đạt cảm xúc của con người khi chiêm nghiệm.

Cái tinh thần đó, cái tinh thần khát khao tìnhhuynh đệ khi đi trong tuyết, khi đứng dưới trăng, khi ngắm nhìn hoa ngàn cỏnội, cũng chính là tinh thần căn bản trong nghi thức uống trà. Trong cảnh quantươi đẹp thích hợp nào đó, bằng hữu gặp nhau, ngồi bên tách trà, hòa điệu mộtniềm giao cảm trước đất trời vạn đại, và động tháithưởng trà kia được nâng lên thành nghi thức, mà như người ta nói, ấy là Tràđạo. Tiện đây, tôi muốn đề cập đến tiểu thuyết Ngàn Cánh Hạc(ThousandCranes) của mình, một cuốn tiểu thuyết thường được bạn đọc hiểu sai là tôi muốnngợi ca vẻ đẹp hình thức và tinh thần của nghi thức uống trà đó.

Nhưng ngược lại, tôi muốn diễn đạt mối hoài nghicũng như cảnh báo mọi người về tính thông tục hợm người mà các nghi thức uốngtrà hiện nay đang sa ngã.

“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the full moon, in winter the snow, clear,cold”.
Mùa Xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề

Một ai đó sẽ nghĩ rằng trong bài thơ đó của Dogen,đơn giản chỉ là sự miêu tả thiên nhiên một cách thông thường, xoàng xĩnh, mộtsự kể lể tầm thường bốn mùa thay nhau nối tiếp. Ai đó cũng có thể nghĩ rằng thơgì như vậy mà cũng là thơ, chẳng có thơ có mộng gì với những từ bình thườngghép nhau như thế. Tuy nhiên, ta hãy nghe một bài tương tự viết lúc lâm chungcủa Thiền sư Ryokan (1758-1831):

“What shall be my legacy?
The blossoms of spring,
The cuckoo in the hills, the leaves of autumn”.(9)
Em thừa kế giùm tôi ngàn hoa thắm
Tiếng chim kêu đồi mộng thuở ban sơ
Tôi để lại cho trần gian muôn thuở
Lá vàng thu, những khoảnh khắc không ngờ!

Ở bài thơ này, cũng tương tự bài của Dogen, nhữngảnh hình và từ ngữ bình thường nhất đã hòa quyện trong nhau một cách trôi chảy,mà đặc biệt, nó đã truyền cho ta tinh thần cốt tủy của Nhật Bản. Bài thơ vừatrích dẫn trên là bài thơ cuối cùng trong cuộc đời của Thiền sư - Thi sĩ Ryokan.

“A long, misty day in spring:
I saw it to a close, playing ball with thechildren.
The breeze is fresh, the moon is clear.
Together let us dance the night away, in what isleft of old age.
It is not that I wish to have none of the world,
It is that I am better at the pleasure enjoyedalone”.(10)
Tôi đang đùa với trẻ con
Trời sương trùm phủ lối mòn cỏ xuân
Trăng thanh, gió nhẹ thật gần
Một trời thân thiết, vang ngân giọng đàn
Nhảy đi em, điệu muôn vàn
Tiếng lòng kim cổ, nhạc vàng xưa sau
Rồi nghe đất chuyển muôn màu
Này hương vũ trụ bên cầu cô đơn
Vòng tay ôm trọn xuyên sơn
Một mình chiêm bái nguồn cơn vĩnh hằng!

(1)Literature 1968-1980, Editor-in-Charge ToreFrängsmyr, Editor Sture Allén, World Scientific Publishing Co., Singapore,1993.

(2) Vào mùa xuân, những khóm anh đào, tiếng cu gù mùa hạ. Mùathu, ánh trăng trong, và mùa đông, tuyết lạnh.

(3)“Trăng mùa đông đến từ sau những đám mây để đồng hành cùngtôi/ Gió thổi buốt, và tuyết lạnh”.

(4)“Tôi sẽ về sau núi, em cũng thế trăng ơi./ Rồi từng đêm,ta sẽ giữ bước song hành”.

(5)“Tâm hồn tôi tỏa sáng, thứ ánh sáng lan rộng thuần khiết;Và không còn hồ nghi gì nữa, trăng cũng nghĩ rằng đó chính là ánh sáng củachính mình”.

(6)“Sáng, sáng, ôi sáng, sáng, sáng, và sáng, sáng/Sáng, cứ sáng hoài, sáng, sáng và sáng mãi, ánh trăng!”.

(7)“Though I compose poetry, I do not think of it as composedpoetry”.

(8)Botticelli (1445 - 1507), họa sĩ nổi tiếng người Ý.

(9)“Di sản của tôi ư? Những khóm hoa mùa Xuân/Chim gùtrên đồi vắng, những chiếc lá thu bay”.

(10)“Một ngày dài mùa xuân đầy sương:

Tôi thấy bầu trời thật gần gũi khi đang chơi cầu cùng con trẻ.

Cơn gió nhẹ trong lành, ánh trăng sáng tỏ.

Ta hãy cùng nhau khiêu vũ suốt đêm thâu, trong điệu múa lời ca từ xa xưađọng lại.

Chẳng phải tôi ao ước cô độc giữa thế giới này, mà chính bởi khi chỉ cònlại một mình, tôi vui thú biết bao trong niềm cô đơn bất tuyệt”.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 4942)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
03/09/2021(Xem: 7299)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
31/08/2021(Xem: 7760)
Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch. Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ. Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn
25/08/2021(Xem: 8503)
Do sự cố vấn chỉ đạo của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Hội Đồng Hoằng Pháp của chúng con/chúng tôi rất hoan hỷ để kính trình Quý Ngài và Quý Vị chương trình giảng dạy tiếng Phạn cơ bản cho Tăng Ni cũng như Quý Phật Tử nào có tâm muốn trau dồi Phạn ngữ trên hệ thống Online như thư chiêu sinh của Giáo Sư Đỗ Quốc Bảo có gửi kèm theo thư nầy. Mục đích chính là để tiếp nối truyền thống đọc được kinh điển trực tiếp từ tiếng Phạn và có khả năng đọc cũng như dịch giải những bản Kinh bằng tiếng Phạn về sau nầy; nên bắt đầu từ tháng 9 năm 2021 việc chiêu sinh được thực hiện, nếu số lượng Tăng Ni và Phật Tử ghi danh đầy đủ như về số lượng và những điểm yêu cầu khác cho một người muốn học Phạn ngữ (xin xem điều kiện có gửi kèm ngay bên dưới). Vậy kính xin Quý Ngài tạo điều kiện cho tử đệ của mình tham gia học ngôn ngữ nầy để tiếp nối con đường của những bậc tiền nhân đã đi trước. Việc học nầy không hạn chế là Tăng Ni hay Phật Tử, miễn sao Quý Vị đáp ứng thỏa đáng được nhu cầu cần có và đủ của một người
23/08/2021(Xem: 2623)
Sau giờ tan trường, Dung thong thả đạp xe về nhà dọc theo đại lộ Thống Nhất. Đến ngã tư Thống Nhất-Hai Bà Trưng gặp đèn đỏ, Dung rẽ phải về hướng Tân Định. Với mái tóc thề đen mướt xõa trên vai áo dài màu tím của trường Nữ Trưng Vương làm cho nhiều người đang chờ đèn xanh không khỏi chú ý. Vài phút sau, bỗng có một chiếc xe Jeep chạy qua mặt Dung rồi dừng lại. Dung đạp xe đến gần, bất ngờ một thanh niên trong bộ quân phục sĩ quan Hải quân màu trắng từ trên xe nhảy xuống chặn làm Dung hốt hoảng dừng lại, lảo đảo suýt ngã xe. Anh chàng vội vàng đỡ xe cho Dung và nói: - Xin lỗi cô về cử chỉ đường đột của tôi. Cô cho tôi hỏi thăm, cô có phải là Dung, người Phan Rang không? - Xin lỗi, anh là ai mà hỏi tôi như thế? - Tôi là Thanh, bạn ngày xưa của Đạt, anh của Dung… - Vậy sao?… Dung chau mày, cơn bàng hoàng sợ sệt chưa dứt, trong đầu cố nhớ lại vì đã lâu lắm rồi không nghe anh Đạt nhắc đến. Thanh giải thích thêm để trấn an và chờ cho Dung hồi tưởng
23/08/2021(Xem: 3157)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên. Cây phong đầu ngõ lại chuẩn bị trổ sắc đỏ ối như mọi năm. Người đi xa từ những mùa thu trước, sẽ không trở về. Những người bạn lâu không gặp, thư gửi đi bị trả lại, nhắn tin điện thoại không thấy trả lời. Có lẽ cũng đã ra đi, không lời từ biệt.
19/08/2021(Xem: 7589)
Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm. Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp. Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh. Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.
17/08/2021(Xem: 7467)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
06/08/2021(Xem: 9664)
Cũng như chuông, trống cũng được coi như là một loại pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của đa số dân tộc theo Phật giáo. Phật tử Việt Nam chúng ta rất gần gũi với thanh âm ngân vang thâm trầm của tiếng chuông; tiếng trống thì lại dồn dập như thôi thúc lòng người...Tại các ngôi chùa, trống Bát Nhã được đánh lên là để cung thỉnh Chư Phật, Chư Bồ Tát quang giáng đạo tràng chứng tri buổi lễ. Thông thường trống Bát Nhã được đánh lên vào ngày lễ Sám hối và trong những ngày Đại lễ. Ba hồi chuông trống Bát Nhã trổi lên để cung thỉnh Chư Phật và cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni quang giáng đạo tràng, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nên lắng lòng, buông bỏ mọi tạp niệm. Bà kệ trống Bát Nhã được đọc như sau: Bát Nhã hội Bát Nhã hội Bát Nhã hội Thỉnh Phật thượng đường Đại chúng đồng văn Bát Nhã âm Phổ nguyện pháp giới Đẳng hữu tình Nhập Bát Nhã Ba La Mật môn Ba La Mật môn Ba La Mật môn.
05/08/2021(Xem: 6535)
Trước đây Tôi không hề nghĩ rằng: “mình sẽ có ngày trình pháp với Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng sau mỗi bài pháp thoại của Ngài”, dù cho tôi không mang một tư tưởng phân biệt Nam Tông và Bắc Tông, nhưng có lẽ tri thức tôi có rất nhiều sai lầm và vướng mắc do không tiếp xúc nhiều với các đạo tràng, mà chỉ quẩn quanh đọc kinh sách và chỉ là cái túi đựng sách! Có ngờ đâu đại dịch của thế kỷ 21 bắt đầu....theo như đa số mọi người lầm tưởng (trong đó có tôi) ....chỉ là cơn bão thoáng qua, không ngờ đã diễn biến càng ngày càng trầm trọng. Và với lòng từ bi, TT Giảng Sư đã tổ chức các buổi nghe pháp thoại online và ...với thì giờ nhàn rỗi trong những ngày bị lockdown, tôi đã chăm chú nghe từ một vài lần trong tuần sau đó, đổi thành liên tục mỗi ngày và bắt đầu nghiện ... khi thiếu vắng mỗi khi Giảng Sư có Phật Sự bên ngoài ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]