Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cho chẳng bao nhiêu Mà nhận rất nhiều!

01/01/201513:36(Xem: 4016)
Cho chẳng bao nhiêu Mà nhận rất nhiều!


lotus-21a
 Cho chẳng bao nhiêu

   Mà nhận rất nhiều!

 

         

 

   Người ta thường nói đời nhà giáo " Cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu. " Tôi thì trái lại, tôi cho rằng: " Nhà giáo chúng tôi cho chẳng bao nhiêu mà nhận rất nhiều. "

      Gần suốt cả cuộc đời, tôi có cho ai bao nhiêu đâu vậy mà đi đến nơi nào, tôi cũng đã được rất nhiều học trò lúc nào cũng dang rộng vòng tay nồng ấm tiếp đón cô giáo cũ của mình.

        Bao nhiêu là nước  mắt,  bao nhiêu là luyến tiếc bịn rịn trên  khắp các nẻo đường tôi đã đi qua.

      Tôi muốn ghi ra đây một phần nhỏ những gì mà chúng tôi đã nhận được, như biểu tượng của tình cảm bền bĩ đậm đà, như niềm hãnh diện được phản chiếu từ phương cách sống tốt đẹp của các em học sinh Đồng Khánh chúng tôi qua biết bao nhiêu là chiều dài của thời gian cũng như vượt biết bao nhiêu chiều rộng của không gian bằng những mẫu kỷ niệm nho nhỏ nhưng cả đời lưu trong ký ức!

       Được tin tôi bay qua Houston, các em đã rủ nhau đến thăm với đầy ắp hoa hồng và quà tặng trên tay. Tôi lặng người trước những reo mừng, những nụ cười rạng rỡ của các em dành cho tôi, xen lẫn những cặp mắt rưng rưng cảm động khi ôm cô giáo ngày xưa trong đôi tay ấm áp của mình. Bao nhiêu kỷ niệm của một thời Đồng Khánh được nhắc nhở với tất cả tâm hồn nhớ nhung trìu mến, kỷ niệm nào cũng dễ thương từ vui đến khổ, từ dở đến hay...

       Ngồi quây quần bên các em, tôi say sưa ngắm bó hoa hồng to tướng, những đóa hồng màu đào tươi thắm được cắm rất công phu. Vốn yêu hoa nên tôi càng mê mẩn ngắm nhìn, không phải một chục, cũng không phải một tá mà những hai tá lận! Hai tá hoa hồng làm tôi nhớ "Ngày của Mẹ" khi còn kẹt lại ở Việt Nam sau 75, làm gì có tiền mua hoa khi cơm không có ăn, sáng tối sắn khoai làm bạn! Mua hoa là việc làm quá xa xỉ thời bấy giờ, thế cho nên tôi đã trải qua những  ngày đi ngang hàng hoa, thẫn thờ nhìn ngắm rồi âm thầm cất bước.     

      Bây giờ đây, quà chất đầy bàn, hoa tươi rực rỡ, các em tíu tít bận rộn, em thì đi nấu nước sôi pha trà, em thì lôi mấy gói mè xững ra.

   - "Mè xững này ngon lắm, mè xững Huế thiệt, em vừa mới từ Việt Nam mua qua đó. Cô "thời " đi , ngon lắm Cô!"

      Lòng đang xót xa về một tin không vui tôi vừa mới nhận được từ Huế cũng liên quan đến một gói mè xững, tôi trả lời một cách xa xăm:

   - "Mè xững Huế thiệt thì càng dở càng quý em ạ!"

      Các em ngơ ngẩn về câu trả lời hơi khó hiểu của tôi, tò mò hỏi:

    - Cô nói sao?

      Các em đâu có biết, tôi đang nhớ về Thanh Mai, nhớ với tất cả xót xa trong lòng!

      Thanh Mai, học trước các em hai lớp. Trước đó Thanh Mai học Tiểu học ở Quảng Ngãi, trong vùng bị Việt Minh chiếm, tình trạng chiến tranh, học hành trở ngại nên hơi mất căn bản. Vào được Đồng Khánh thì tương đối với các bạn cùng lớp, Thanh Mai bị mặc cảm lớn tuổi hơn, kéo theo nhiều mặc cảm khác. Em càng sợ nhất là môn Toán, em cho rằng đó là môn mà em đã mất căn bản, không bao giờ vớt lại được. Nhưng tôi đã kiên nhẫn khuyến khích, nâng đỡ, xóa tan bớt mặc cảm cho em. Rốt cuộc, Thanh Mai cũng tốt nghiệp Trung học và vào Sư phạm. Đường học vấn của em không được hanh thông cho lắm nhưng ra đời, với tư cách người lớn của em, em tương ̣đối thành công trong cương vị của một giáo viên Tiểu học.

      Bẵng đi một thời gian rất lâu, trong những ngày đất nước lầm than sau 75, tôi về Huế, tình cờ gặp và ghé em giây lát. Thanh Mai nài nĩ tôi ở lại dùng cơm nhưng tôi làm sao nuốt cho trôi những hạt cơm độn khó khăn của các cháu!

      Qua câu chuyện hàn huyên về cuộc sống, về nghề nghiệp, đặc biệt là trong cảnh ngộ mới, Thanh Mai cho biết em cũng không gặp mấy khó khăn là " Nhờ em học được từ các Thầy Cô những cách đương đầu, những thái độ đối xử, nhất là tình thương chân thật đổ xuống cho học sinh - đầu em hơi cúi nghiêng xuống mà mắt ngước nhìn không thẳng lên tôi...nhất là những học sinh kém may mắn...như em ngày xưa! "

      Thanh Mai nhắc đi nhắc lại một cách  chân thành biết ơn rằng: " Hành trang vào đời của em là tất cả những gì em đã thu nhặt được dưới mái trường Đồng Khánh ngày nào."

      Thanh Mai tha thiết hỏi ngày giờ tôi vào lại Sài Gòn nhưng tôi nói là vé xe lửa mua chui, không có ngày chắc chắn. Không muốn biểu lộ nỗi buồn, tôi cũng dấu rất nhiều người, tuy vậy ở ga xe lửa hôm ấy bà con, bạn bè, học trò đưa tiễn tôi cũng khá đông.

      Còi tàu huýt đến lần thứ hai mà tôi vẫn còn dựa vào bức thành ngoài hiên ga. Sau đó tôi chen được lên tàu chỉ còn đủ thì giờ để vẫy tay xuống bà con, bạn bè đang đứng nhìn với theo, tay vẫy không ngừng.

      Những hình ảnh thân thương mà tôi đang cố lưu trữ vào vùng kỷ niệm cứ xa dần, nhỏ lại theo con tàu chuyển bánh cứ nhạt nhòa dần qua màn nước mắt đang đọng quanh mi.

      Bỗng có mấy tiếng gọi: " Cô ơi! Cô ơi! " từ sân ga vang lên, những tiếng kêu thất thanh đang cố chen, cố át tiếng xình xịch rầm rầm của động cơ khiến tôi giật mình nhìn xuống. Một thiếu phụ đang cố chạy đuổi theo tàu, vừa chạy vừa kêu. Tôi nhìn kỹ: Thanh Mai chạy cùng chiều và tàu cũng đã chuyển tốc độ nhanh dần, em làm sao mà rút cho kịp dù chỉ còn cách một khoang cửa sổ. Tôi nhoài cả nửa người ra ngoài và la lớn: " Đừng chạy nữa, đừng chạy nữa kẻo té nguy hiểm lắm!"

      Tôi vẫn tiếp tục la và Thanh Mai vẫn tiếp tục chạy, cố hết sức bình sinh chạy cho kịp. Một tiếng "sạt", một gói gì nho nhỏ bay lên tàu, lọt được qua khung cửa sổ ngay chỗ tôi đứng. Thanh Mai ngừng lại hai tay ôm lấy ngực, miệng há hốc, đứng như chết trân, chết điếng giữa sân ga! Tàu càng chạy xa, tôi càng nhoài người ra, cố vận dụng tất cả sự điều tiết để nhìn, không biết Thanh Mai có sao không? Sau đó, tôi chỉ còn thấy được Thanh Mai đã ngồi rục xuống với cái nón cũ trên đầu trông xa chỉ như tai nấm giữa sân ga bấy giờ đã vắng khách. Tôi khóc ròng nhìn trằn trằn theo tai nấm không di động, nhỏ dần cho đến khi mất hút khỏi tầm mắt.

     Cái gói quà kia là một gói mè xững. Mè xững Huế thứ thiệt, nhưng dưới thời khoảng đó nó vừa nhỏ, vừa mỏng, nó được trộn thêm bột sắn nên rất cứng, lại thiếu ngọt và thiếu cả ̣đậu cả mè. Nhưng với tôi, chắc chắn một điều là trong đời tôi không còn thấy món quà nào quý hơn gói mè xững ấy!

       Và rồi tôi đã được tin từ những học sinh ở Huế cho hay Thanh Mai- cô học trò có tình có nghĩa của tôi- vừa mất vì ung thư !!!

      Vậy đó, đời nhà giáo chúng tôi có những chuyện buồn, chuyện ân tình buồn nhưng cũng có những chuyện vui khác, không ngoài niềm hãnh diện về học trò Đồng Khánh thân yêu của mình.

      Đó là Nguyễn thị Xuân Lan, một em học trò cũ của tôi, có chồng người Mỹ và định cư ở Seattle.

      Ngày tôi sang Hoa Kỳ để dự những buổi họp mặt, em đã tìm mọi cách để được gặp thăm tôi một cách sốt sắng, đó là người học trò Đồng Khánh đầu tiên mà tôi được gặp trên đất Mỹ.

      Qua nhiều lần trò chuyện và lui tới với nhau, tôi nhận biết được em đã có cuộc sống vô cùng hạnh phúc. Chồng em- anh Frank, người Mỹ- là một người có tư cách đạo đức đặc biệt, khá gần gũi với tinh thần Nho giáo Đông phương. Tôi không hiểu là do tình yêu mãnh liệt đồng hóa mà anh Frank chịu ảnh hưởng của Xuân Lan hay do Xuân Lan cảm phục tư cách đạo đức của anh Frank mà có một tình yêu nồng thắm, một tình yêu đủ mạnh để gạt bỏ dư luận ra ngoài tai, theo tiếng gọi của con tim trước khi biến cố mang nhiều đồng bào Việt Nam qua Mỹ.

      Cứ mỗi lần tôi có dịp qua Mỹ, dù rất bận rộn, Xuân Lan cũng đều cố sắp xếp thì giờ để có thể đến thăm tôi, lần nào cũng có Frank cùng đi và cũng phần nhiều đều có những món quà nho nhỏ nhưng rất trang trọng trong cách chọn quà do Frank cầm đưa rất nhã nhặn.

      Tôi áy náy, cám ơn. Frank lễ phép trả lời:

  "- Không có chi, đây chỉ là chút quà nhỏ để tỏ lòng biết ơn Thầy Cô, có các Thầy Cô của Việt Nam, Xuân Lan mới được như ngày nay."

      Rồi Frank lại hỏi tiếp:

 "- Hồi đó Cô dạy vợ tôi môn gì? Chắc phải là môn Đạo đức?“

      Cảm động và hãnh diện, tôi kể tiếp cho Frank nghe có những người Mỹ khác cũng đang hãnh diện và hạnh phúc ấm êm như frank, bên những người vợ vẹn toàn sản phẩm của trường tôi!

      Mỗi lần về lại Hoa Kỳ, mỗi lần gặp Frank là tôi lại được nghe cám ơn, những lời cám ơn mà có lẽ Frank đã không có dịp gọi về cho những bậc sinh thành của vợ.

      Frank luôn luôn nói:

  "- Có những Thầy Cô giáo của trường Đồng Khánh như Cô, tôi mới có được người vợ tuyệt vời này! "

      Hình ảnh, lời lẽ cũng như tinh thần tôn Sư trọng đạo của Frank đã một thời là niềm suy tư của tôi.

     Chúng tôi, những nhà giáo nói chung, đã cho bao nhiêu mà nhận nhiều như thế !!

 

 

                                                 Tháng Giêng buồn ! 2015

                                                Nguyên Hạnh HTD

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4471)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3523)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4233)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11571)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11445)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3294)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5414)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3580)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3672)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3437)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]