Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những đoản khúc cho Mẹ và Chị

22/06/201304:20(Xem: 2721)
Những đoản khúc cho Mẹ và Chị


red_rose_55

Những đoản khúc cho Mẹ và Chị

Thiên Hương

---o0o---

 

Không biết tôi đã đọc Bông hồng Cài áo của thày Nhất Hạnh bao nhiêu lần.  Từ những ngày còn thơ ấu sống trong vòng tay mẹ, cho đến ngày hôm nay, khi nấm mồ của mẹ đã xanh ươm cỏ, bài viết luôn làm tâm hồn tôi chùng xuống trong những yêu thương dịu dàng nhất.  

Dù mẹ là một hiện thực dấu yêu cho đến một hoài niệm ngậm ngùi, hình ảnh mẹ luôn choáng ngời trong tâm trí.  Có những đêm dài thức giấc, nhìn ánh trăng lạnh ngoài khung cửa,  khát khao đến cháy lòng được mẹ trở về trong vài sát na ngắn ngủi.   Dù vẫn cầu nguyện rằng, trong thế giới bên kia, mẹ đang thênh thang bước trong cõi Vô minh, cởi bỏ hết muộn phiền quỳ bên chân Phật.

Mẹ ơi, con đã đọc nhiều bài thơ cổ,

Con cũng từng xem nhiều áng văn hay,

Con đã nhiều đêm ngắm ánh trăng lên

Ngậm lơ lửng một vầng mây bạc

Con cũng nhiều ngày đi dưới những hàng cây

Trong những con phố cổ, nghe mùa thu đổ lá,

Ngắm mùa hạ tuôn đổ nắng vàng

Và mùa đông ngập trời sương trắng

Nhưng mẹ ơi, vẫn không có gì tuyệt vời bằng ánh mắt của mẹ,

Không có gì dịu dàng hơn ánh mắt và tiếng nói của mẹ

Vậy đó, vậy mà giờ tôi đã mất mẹ.  Dù bao nhiêu tuổi, mất mẹ vẫn làm con người hụt hẫng.  Ngày trước, khi còn mẹ,   các anh em ở những nơi xa xôi vẫn xoay tròn trong quỹ đạo với mẹ là tâm điểm.  Tâm điểm đã tan, những đứa con chỉ còn là những điểm sao lạc lõng bơ vơ giữa bầu trời đêm. 

Mùa Vu lan lại tới, giỗ đầu mẹ chưa đến, ngập ngừng cài bông hồng trắng lên ngực áo để kiêu hãnh rằng mình đã một thời có mẹ, nhưng cũng để xót xa rằng mẹ đã ngàn đời cất bước ra đi.   Không bao giờ còn được ôm lấy mẹ, nói rằng : Mẹ ơi, mẹ có biết là con thương mẹ lắm không.  Không bao giờ còn mua được một cái áo, một đôi giày cho mẹ, để nhìn mẹ trong bộ quần áo mới, nở nụ cười hiền hậu.  Không bao giờ còn được áp má vào má mẹ, ngửi mùi trầu không nồng nàn quen thuộc.

Vào những năm gần mất, trí óc mẹ đã trở nên lú lẫn.  Mẹ như một đứa bé nói những lời ngô nghê thật dễ thương, nhưng mẹ đã làm chúng tôi rơi nước mắt mỗi khi đút thức ăn cho mẹ.  "Thôi, tôi không ăn đâu, nhà còn cả đám người kia kìa, đem vào cho lũ trẻ nó ăn."  Trong tâm thức, mẹ vẫn nghĩ đang sống những ngày cơ cực xưa cũ, nhịn miếng ăn miếng mặc cho chồng con.    Hoặc đôi khi "Thôi, các cô ở chơi nhé, tôi xin phép tôi về lo cơm cho ông ấy".   Ôi, những người mẹ Việt nam, dù lúc nào, dù ở đâu, cũng quên mình mà nghĩ đến gia đình.  Rồi những tháng nằm trên giường bệnh, dù đã mê man, nhưng lúc nào hỏi mẹ có khỏe không là "Dạ, cám ơn, ông nhà tôi vẫn khỏe".   Mẹ ơi, có lúc nào trong cuộc đời, mẹ nghĩ và lo đến mẹ không?  Lắm lúc, tôi xót xa nghĩ đến mẹ, nghĩ là mẹ khổ vì chỉ nghĩ đến chồng con, anh em.  Lúc nào cũng dạy con "Người ăn thì còn, mình ăn thì mất, con ạ.", nên lúc nào cũng nhịn ăn nhịn mặc.  Nhưng thật ra sống như vậy, mẹ có khổ không nhỉ.  Chỉ thấy chồng con vui, là mẹ vui; chồng con an nhàn là mẹ thư thái dù mẹ có vất vả đến mấy đi chăng nữa.  Cái tâm tịnh là đủ có phải không mẹ.  Vậy đó, vậy mà mẹ tôi đã trăn trở biết bao ngày trên giường bệnh trước khi nhắm mắt …

Trong da thịt chúng con, vẫn là một phần máu xương của mẹ

Và trong những bằng cấp, tiền tài chúng con hiện có

Vẫn đẫm ướt những ước mơ và hi vọng của đấng sinh thành

Vẫn nhuần nhuyễn những cơ cực mẹ cha

Vậy mà giờ đây chúng con làm gì được,

Khi mẹ trong cơn đau đớn từng ngày

Khi bố không còn nói tiếng yêu thương

Khi những nghĩa ân không bao giờ đền đáp

          Mẹ ơi,

         Con chỉ biết thắp nén nhang thơm

         Trong những lúc trăng lên mà âm thầm cầu nguyện

         Mong mẹ sớm thoát khỏi những đớn đau của kiếp người

         Để bố mẹ mỉm cười đâu đó

             Và để chúng con

                  Gắng cười trong nước mắt tuôn rơi.

Và như thế, chúng tôi đã bao ngày cầu nguyện trong nước mắt cầu cho mẹ được giải thoát.   Mẹ đã ra đi trong một ngày vía Phật.  Mẹ đã ra đi, để chúng tôi vẫn cảm thấy mình còn dại khờ biết bao nhiêu khi thiếu những lời bảo ban của mẹ, để chúng tôi cảm thấy mình bơ vơ khi thiếu cái bóng dáng nhỏ bé xinh xinh của mẹ.

Khi vành tang mẹ chít vừa đầy năm tháng, tiếng điện thoại một buổi trưa thứ bảy bất ngờ đem đến những đau đớn ngậm ngùi.  Tin người chị thứ năm đột ngột qua đời từ bên kia đại dương làm buổi trưa chợt tối sầm ánh nắng.   Một người mẹ tuyệt vời đã ra đi, rồi một người chị tuyệt vời cũng lại ra đi.

Trong gia đình, chị là một bản sao hoàn chỉnh nhất của mẹ và một tấm gương phản chiếu sự linh động của bố.  Tình yêu của Bố và mẹ đã tạo nên người chị dấu yêu mà cả nhà cùng kiêu hãnh.   Chị đã cho chúng tôi những bài học hoàn hảo về lòng nhân đức, về lòng thương yêu, về sự nhẫn nại, về lòng hi sinh, về   sự siêng năng làm việc không ngưng nghỉ.  Với bố mẹ, chị luôn là một người con chí hiếu.  Với các anh chị em, chị luôn thuận thảo yêu thương hết lòng. Với chồng con, chị luôn tận tụy quên mình, tảo tần nuôi chồng đi học tập, nuôi con khôn lớn, vun vén gia đình.  Với họ hàng, bạn bè, và ngay cả người không quen biết chị luôn đối đãi hết mực chân tình.   Một đời cực khổ nhưng nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi.    Dù công việc tất bật đến đâu, nhưng lúc nào cũng nói cười niềm nở, và hát lảnh lót như chim.   Chị đi đến đâu là cũng mang theo một trời đầy thương yêu và sức sống.   Trong đời sống ngắn ngủi của mình, chị chỉ cho đi mà không bao giờ nghĩ  gì đến nhận.   Trong tâm tất cả những người đã biết chị, mỗi khi nghĩ đến chị, ai ai cũng thấy lòng ấm áp và trìu mến.   Vậy mà chị đã nhẹ nhàng rời khỏi cuộc đời, như một đám mây tách khỏi vầng trăng, như một làn sương sớm mỏng manh nhẹ tan khi vạt nắng đầu ngày đi lên.   

Chỉ mới trước chân đến Mỹ vừa tròn một tháng, những cơ cực của ngày tháng cũ chưa kịp tan dấu trên đôi vai muộn phiền; những ước mơ, những hăng say bước vào một đời sống mới còn lóng lánh trên đôi mắt đen nâu hạt dẻ, nụ cười vẫn nồng ấm với hai lúm đồng tiền trên khuôn mặt tròn phúc hậu, chị đã vội vàng lìa xa cuộc sống vô thường để bước vào cõi khác…

Hàng cây cao ngợp xanh bóng lá

Mặt nước hồ êm ả trong xanh

Giữa không gian thinh lặng buổi trưa hè

Chị đã mất, đã ra đi miên viễn

 Nụ hoa xanh vẫn còn đây ngơ ngẩn

Lá rũ mềm hiu hắt những ưu tư

Mây mênh mang chùng thấp xót xa buồn

Chị nay đã muôn đời xa cách mãi

Trời Ca li mênh mang nắng hạ

Ôm hộp tro tàn, lệ ứa tràn mi

Thắp nén nhang thơm khấn nguyện chị rằng

Thôi chị nhé từ nay đừng ray rứt

Hãy quay đi, bước về nơi chốn lạ

Bỏ cõi vô thường để niệm Phật tâm an...

Dù rằng hình ảnh chị không bao giờ phai nhòa trong tâm trí, dù rằng lúc nào cũng cầu nguyện cho chị mau siêu thoát, nhưng nước mắt làm thế nào kềm giữ khi nghĩ tới nụ cười ấm áp dễ thương của chị.

Lên đỉnh núi cao

Thấy trời lồng lộng

Nắng đơn côi và gió núi cũng đơn côi

Xuống biển cát vàng

So'ng nhảy nhấp nhô

Thấy cuộc đời mong manh như sương khói

Thâ'y con người bé nhỏ đến hư không

Sắc cũng thành không, không cũng thành sắc

Chu't tâm lành mong thấu đến trời xanh

Chu't xác thân ai đốt cháy lụi tàn

Đời ngơ ngác, chim muông cùng ngơ ngác

Một đám mây vương,

Một cõi Phật về

Cầu cho chị nghỉ yên giữa ngàn trầm hương khói

Một trang sách đời đã qua đi, thôi thì ….

Chị ơi xin hay ngủ yên

Quên đi trần thế, về miền an vui

Hôm nay, khi tiếng chuông chùa ngân vang báo mùa Vu lan tới, khi tiếng mõ đều đều lại bắt đầu những lời kinh cầu siêu cho những người đã khuất, nước mắt vẫn rưng rưng khi đọc lời kinh cầu nguyện cho mẹ và chị mau siêu thoát.  

Mẹ ơi, dù mẹ ở đâu, chúng con vẫn luôn là con của mẹ.  Chị ơi, dù chị ở đâu chúng em vẫn luôn là em của chị.  Dù sống kiếp nào đi nữa, chúng con vẫn mong luôn được là con của mẹ, chúng em vẫn sẽ là em của chị.  Mẹ và chị vẫn luôn là những hình ảnh để chúng tôi tự hào, để chúng tôi tôn thờ và để chúng tôi ngàn đời yêu quý.   Chắp tay cúi đầu, xin cầu nguyện đức Phật từ bi đem mẹ và chị vãng sanh Cực lạc quốc.

Hai tay buông xuôi

Hàng mi khép lại

Cuộc đời giờ chỉ còn những hư không

Thênh thang cõi lạ

Giã chốn vô thường,

Nhìn quanh quẩn chỉ còn toàn sương khói

Nợ trần gian rũ sạch

Phiền não cũng tiêu tan,

Nuối tiếc chi những mong manh trần thế

Dứt nợ hồng trần

Thoát cõi trần ai

Về cõi Phật thong dong đôi chân bước….



Vu Lan 2001 
Thiên Hương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4355)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2760)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 10264)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567