Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghệ sĩ Đoàn Yên Linh sau cơn tai biến

04/02/201306:06(Xem: 13338)
Nghệ sĩ Đoàn Yên Linh sau cơn tai biến
Doan Yen Linh

Nghệ sĩ Đoàn Yên Linh sau cơn tai biến

Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.

Trước kia có một số ban ngâm thơ thường do các thi sĩ chủ trì. Ban Mây Tần của Kiên Giang Hà Huy Hà chuyên ngâm giọng Nam, nhóm Nghệ Thuật Truyền Thanh với Tú Kếu, Đỗ Quý Toàn, Viên Linh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Trần Dạ Từ, Trần Tuấn Kiệt thường đọc thơ mới là những bài thơ cả nội dung lẫn hình thức đều mới mẻ. Nhóm thơ tự do này ngoài đài phát thanh còn thường xuyên trình diễn ở các trường đại học. Ngoài ra còn ban Tao Đàn của Đinh Hùng...

Tao Đàn nổi tiếng với các giọng ngâm lừng lẫy giai đoạn đầu Quách Đàm, Hồ Điệp, Hoàng Thư... với tiếng sáo Tô Kiều Ngân. Về sau này thêm Hoàng Oanh, Hoàng Hương Trang với giọng ngâm pha Huế... kế nữa là Mai Lan, Mai Hiên, Đoàn Yên Linh...

Hồ Điệp, Hoàng Thư... đã qua đời, một số khác đi xa hay bỏ nghề. Riêng Đoàn Yên Linh vẫn bền bỉ theo nghiệp ngâm thơ.

Đoàn Yên Linh tên thật Nguyễn Đức Lợi, sinh năm 1939, tại Dĩ An, Bình Dương nhưng nguyên quán ở miền Bắc (Đa Sỹ, Hà Đông). Trước 75, ông làm thư ký cho tòa án, cùng lúc hoạt động mạnh mẽ bên lĩnh vực văn nghệ.

Ngay từ thuở thiếu thời, lúc còn đi học, ông đã rất đam mê thơ ca. Ở quê thỉnh thoảng có các buổi văn nghệ lễ hội, thế nào ông cũng gia nhập với tiết mục không thể thiếu của mình là ngâm thơ.

Từ những năm 60, ông bắt đầu được biết tiếng qua chương trình Tao Đàn của Đài Phát Thanh Saigon. Xuất thân từ đó, kế thừa lớp trước, ông đã khẳng định vị trí của mình trong hàng ngũ diễn ngâm làm phong phú thêm số nghệ sĩ ở lãnh vực này.

Đoàn Yên Linh còn mở rộng hoạt động ở nhiều nhóm ngâm thơ khác nhau, trong đó có Mây Hồng. Đó là nhóm thi nhạc giao duyên do ca sĩ Hồng Vân chủ trương thường trình diễn các bài thơ phổ nhạc. Chẳng hạn Màu Tím Hoa Sim thơ Hữu Loan, Phạm Duy phổ nhạc, Phạm Đình Chương phổ nhạc Mộng Dưới Hoa của Đinh Hùng, Nửa Hồn Thương Đau thơ Thanh Tâm Tuyền... Khi TV trở nên phổ biến trong dân chúng, Mây Hồng không trình diễn trên đài phát thanh mà chủ yếu xuất hiện trên truyền hình, mạnh nhất từ năm 71, 72 trở đi. Đoàn Yên Linh không chỉ ngâm các bài thơ lẻ mà trên đài truyền thanh, ông cũng diễn ngâm các vở kịch thơ dài như Vân Muội, Bến Nước Ngũ Bồ, Bóng Giai Nhân... cùng với các Cẩm Giang, Tuấn Đăng...

Sau 75, như mọi hoạt động văn nghệ khác, ngâm thơ tạm dừng cho đến khoảng năm 1983, Đoàn Yên Linh cùng Chánh Thuần, Bảo Cường bắt đầu đi ngâm thơ và tổ chức các buổi ngâm thơ khắp nơi. Thoạt tiên tại các ngôi chùa xa gần vào dịp lễ lớn, ra tận miền Trung: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Huế... Ông là người hiền hậu nên dễ dàng mở rộng giao du. Chính nhóm đã góp phần đưa hoạt động văn nghệ tại nhà chùa trở nên quen thuộc hơn, thích ứng với sinh hoạt sôi nổi của thành phố lớn. Về sau, phong trào văn nghệ tại các cơ sở tôn giáo lan rộng nên các nhà thờ cũng mời nhóm ngâm thơ này đến trình diễn.

Doan Yen Linh

Vào khoảng đầu những năm 90, Đoàn Yên Linh kết hợp cùng Hồng Vân, Huyền Trân, Tô Kiều Ngân, Mai Hiên, Vân Khánh, Kim Lệ, Ngô Đình Long... bắt đầu trình diễn định kỳ ở sân khấu quận Phú Nhuận. Sau khi vững vàng, từ đó mở rộng phạm vi ngâm thơ sang nhiều nơi khác.

Phong trào ngâm thơ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Người làm thơ nhiều, người muốn nghe cũng gia tăng. Các nhóm ngâm thơ có đất dụng võ ở các tụ điểm văn nghệ, câu lạc bộ, nhà văn hóa, hội hè,... tại các quận huyện, thành phố, các tỉnh...

Nhất là về sau này khi máy móc thu âm nhập về VN nhiều, giá thành làm đĩa hạ khiến phong trào làm CD thơ trở nên phổ biến. Hầu hết các đĩa thơ ra đời - dù do các thi sĩ trong Việt Nam hay ngoài hải ngoại thực hiện - đa số đều có sự góp mặt của Đoàn Yên Linh, một tên tuổi quen thuộc mà khách yêu thơ thường nghĩ đến đầu tiên, khi muốn thực hiện một đĩa CD thơ.

Sau này lối ngâm thơ có nhiều thay đổi. Người ngâm không dùng một giọng nữa e nhàm, tùy từng nơi chốn, sân khấu, thính giả... mà đưa vào bài thơ nhiều cách ngâm khác nhau. Người ngâm có thể thả cảm hứng của mình theo cách diễn đạt của dân ca. Các điệu ru, hò, hát nói, ca Huế... của cả ba miền Bắc Trung Nam đều được người ngâm tận dụng, để có thể tự do diễn tả bài thơ một cách truyền cảm theo cảm xúc riêng của từng người.

Cách ngâm thơ của Đoàn Yên Linh không thay đổi theo thời gian, tuy không sử dụng nhiều làn điệu nhưng rất điêu luyện và truyền cảm khiến giọng ngâm của ông bao giờ cũng được ưa chuộng.

Là nghệ sĩ ngâm thơ kỳ cựu với giọng ngâm ấm áp, trữ tình, ông đã tham gia hầu hết các chương trình ngâm thơ của sân khấu, đài phát thanh và truyền hình suốt hơn bốn mươi năm qua.

Cách đây bốn năm, năm 2006, ông bị tai biến mạch máu não một lần phải nằm bệnh viện cả tháng. Kỳ đó thoát nạn, sau đó ông gượng từ từ hồi phục lại. Nửa người bên phải trở nên yếu, tuy ăn uống khó khăn nhưng vẫn nhận biết được mọi người. Đến năm 2007 do tuổi cao, sức yếu, ông lại bị tai biến lần nữa. Lần này nặng hơn, ông bị quật ngã hoàn toàn, liệt hẳn nửa người bên phải, không đi đứng được và không nói được. Gia đình lại gặp chuyện buồn, người em gái của ông bị tai nạn qua đời, cũng là một trong những nguyên nhân khiến ông bị sốc nặng.

Chị nuôi bệnh được thuê tháng để chăm sóc Đoàn Yên Linh, đỡ ông ngồi trên chiếc xe lăn đẩy ra chơi ngoài hành lang rộng rãi hoặc ngồi trên ghế tắm nắng mai ban sáng và hóng gió buổi chiều.

Đoàn Yên Linh từ trước đến giờ vốn sống độc thân, suốt đời chỉ đồng hành với thơ. Gia đình lớn của ông chính là giới ngâm thơ thường xuyên gắn bó với nhau bằng mối tình văn nghệ rất đậm đà.

Ông nhìn khách mỉm cười vui vẻ, ánh mắt vẫn tinh nhanh, nắm tay khách thật chặt ra ý chào. Tuy nhiên vì liệt bên phải nên ông chỉ có thể ngoảnh đầu về phía trái. Muốn nói chuyện với ông phải đứng về phía ấy.

Hiện chỉ còn người em trai duy nhất là ông Lộc chăm sóc anh rất chu đáo. Khi Đoàn Yên Linh mới ngã bệnh, ông Lộc hy vọng khi sức khỏe khá hơn, sẽ chuyển ông Đoàn Yên Linh vào khu dưỡng lão Thị Nghè. Ở đó tiện nghi, khu trung tâm thành phố, lại sẵn người săn sóc và đông các cụ già làm bạn. Mong ước ấy không thành hiện thực vì ông Đoàn Yên Linh mấy lần đột quỵ, tuy kịp thời cứu chữa nhưng gia đình hết sức lo lắng vì tình trạng sức khỏe của ông không ổn định. Bệnh người già nằm một chỗ chuyển qua tim, thận,... cần ở bệnh viện để bác sĩ theo dõi thường xuyên. Bệnh ngày càng nặng nên hoàn cảnh hiện giờ của ông thật khó khăn.

Bệnh viện Điều Dưỡng, phục hồi chức năng nằm cuối đường Âu Dương Lân, quận Tám, rợp bóng cây xanh tĩnh mịch. Ông nằm ở đó bốn năm nay, hẳn đã chọn bệnh viện này làm nơi sống tới hết đời. Ông không ngồi để ăn được vì bị sặc, đến giờ ăn, Đoàn Yên Linh được bồng từ ghế vào giường. Từ năm 2007 đến nay, ông được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè thân hữu, giới nghệ sĩ trong và ngoài nước. Khách khứa tới thăm khiến ông vui thích, đôi mắt vẫn sáng lên sự tinh nhanh ánh niềm vui và miệng mỉm cười. Mắt tươi và khóe miệng nhếch cười. Chỉ thế thôi. Ông nhận ra người quen, vẫn hiểu biết sự việc diễn ra chung quanh nhưng không thể thốt ra dù một âm thanh nhỏ. Một nghệ sĩ chuyên ngâm thơ, sống vì giọng ngâm nay hoàn toàn không thể cất lời. Cơn đau đột biến thốt nhiên cắt ông đứt khỏi, không những vĩnh biệt thế giới của thi ca chứa đầy nhạc điệu mà còn những âm thanh, sinh hoạt đời thường.

Ca sĩ Hồng Vân là người gắn bó với Đoàn Yên Linh từ rất lâu trong nghiệp ngâm thơ. Cứ mỗi lần nhận ngâm ở đâu, nhóm chị lại trích ra một ít để đưa tặng cho ông. Ông Thạch Cầm đàn tranh tuy bệnh nặng nằm một chỗ nhưng cũng không quên Đoàn Yên Linh. Nhà văn Hồ Trường An sống bên Pháp, vẫn thường nhớ đến bạn cũ, cũng như các thính giả yêu mến giọng ngâm của ông. Cuối cùng còn lại đây là những tình cảm văn nghệ ấm áp đến từ khắp nơi, giúp ông thêm sức mạnh chịu đựng để có thể vượt qua cơn thử thách bệnh hoạn cuối đời này.


Nguyễn thị Hàm Anh
Sunday, March 28, 2010

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24389)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9378)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10957)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3610)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5315)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10474)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15020)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3476)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]