Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mạc ngôn là Ẩn ngữ: Nobel Văn chương 2012

15/10/201202:22(Xem: 5282)
Mạc ngôn là Ẩn ngữ: Nobel Văn chương 2012


MẠC NGÔN LÀ ẨN NGỮ:
Nobel Văn chương 2012
Trầm Kiêm Đoàn


moyan-nobel_prizeSáng nay, 11-10-2012, đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (China Central Television’s – CCTV) thông báo tin nhà văn Mạc Ngôn (Mo Yan) đang sinh sống ở Bắc Kinh được giải thưởng Nobel Văn chương năm 2012 chỉ cách 10 phút sau khi Hàn Lâm Viện Thụy Điển thông báo tin trúng giải. Tiếp theo là báo chí toàn quốc Trung Hoa đã rộn ràng thi nhau không tiếc lời ca tụng “vinh dự nước nhà”.

Đây là lần thứ hai trong lịch sử 111 năm của giải văn chương Nobel với 108 người đã trúng giải, nhà văn Trung Quốc được giải. Thế nhưng dòng truyền thông văn học “chính thống” của Trung Quốc thì lại xem như lần đầucó một tác giả Trung Quốc trúng giải Văn chương Nobel. Mặc dầu năm 2000, nhà văn Trung Quốc đầu tiên được giải Nobel là Cao Hành Kiện (Gao Xingjian); nhưng Cao bị xem là người “ngoại đạo” vì sống ở phương Tây và có quốc tịch Pháp nên thông tin mấy ngày sau mới được loan ra một cách dè dặt... như thường lệ!

Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 ở thị xã Cao Mật, tỉnh Sơn Đông thuộc vùng Đông Bắc Trung Quốc; lớn lên trong môi trường nông nghiệp, cha mẹ đều là nông dân. Mạc tốt nghiệp khoa văn của học viện Nghệ thuật Giải phóng Trung Quốc.

Tác phẩm Mạc Ngôn có 11 tiểu thuyết và khoảng 100 truyện ngắn, hầu hết lấy bối cảnh sáng tác và phát hành ở Trung Quốc. Một nửa tiểu thuyết và vài mươi truyện ngắn được dịch ra nhiều thứ tiếng là các tác phẩm: Hồng Cao Lương, Đàn Hương Hình, Cây Tỏi Nổi Giận, Rừng Xanh Lá Đỏ...

Dư luận văn giới phương Tây và ngay cả tạp chí Global Time tại Bắc Kinhđã đặt vấn đề là có chăng yếu tố chính trị toàn cầu đóng một vai trò nào đó trong việc trao giải thưởng văn chương cho Mạc Ngôn. Sự ám ảnh đó cho rằng, đây như một cử chỉ đưa cành cây Ô-liu ra hóa giải mối căng thẳng vẫn còn nguyên trong tâm lý của giới lãnh đạo Trung Quốc đối với hội đồng chấm giải Nobel khi nhân vật đối lập Lưu Hiểu Ba được trao giải Nobel Hòa bình năm 2010.

Mặc dầu đây đó vẫn có nhiều lời đồn đãi thị phi, tuy nhiên, phần đông các nhà bình luận quốc tế vẫn chân thành chúc mừng Mạc Ngôn. Như trường hợp giáo sư đại học Bắc Kinh, He Weifang nói rằng, ông lấy làm tiếc cho Mạc Ngôn vì nhà văn nầy từng tự tay viết ra một tham luận theo kiểu Stalinist mà Mao Trạch Đông đã đưa ra năm 1942 ra lệnh cho các nhà văn viết ca ngợi Đảng. Đồng thời, ông viết trong “blog” của mình rằng: “Giải Nobel văn chương năm 2012 trao cho Mạc Ngôn đã làm mất danh tiếng của giải văn chương lịch sử nầy. Đây có thể là trò... uốn éo giữa Hội đồng chấm giải Nobel và giới cầm quyền Trung Quốc.” Tuy nhiên giáo sư He Weifang vẫn cho là nhà văn Mạc Ngôn rất đáng được chúc mừng.

Tại Hồng Kông, báo South China Morning Postđã mỉa mai so sánh hai người Trung Quốc được giải thưởng Nobel... đều“câm miệng hến” (Shut Up). Nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba thì bị ra lệnh “Câm Miệng”; còn nhà văn Mạc Ngôn khi chọn bút hiệu nầy thì đã tự mình “câm miệng” (mạc ngôn: không nói) từ lâu lắm rồi!

Trên quan điểm văn học nghệ thuật thuần túy, thật không dễ gì thắp đuốc nhân gian soi rọi để thấy rõ khuôn mặt trung thực của một nhà văn. Chính trị đi vào đầu người bằng tiếng vang và búa gõ; văn chương đi vào lòng người bằng im lặng và âm thầm.

Nói như Phùng Quán, kẻ sáng tạo văn chương cũng ví như người xiếc đi dây. Tuy người xiếc đi dây thật khó, nhưng không khó bằng làm nhà văn. Có lẽ Phùng Quàn đã đi trên con đường sáng tạo đồng thời và đồng cảnh ngộ với Mạc Ngôn. Phùng Quán nói lên những thao thức, trăn trở của mình – một người cầm bút – từ những biểu tượng nhân sinh và thực tế bạo liệt qua Lời Mẹ Dặn. Mạc Ngôn tự chọn cho mình một thế nhìn và thế đứng nói mà không nói: mạc ngôn!“Mạc ngôn” trong văn hóa phương Đông không có nghĩa là “không nói gì cả” như giới văn bút phương Tây thường chuyển ngữ. Cần nhìn khái niệm “mạc ngôn” trên quan điểm văn hóa Phật giáo để thấy mạc ngôn là nguyên ngôn; mạc ngôn là ẩn ngữ. Đó là sự chiêm ngắm hiện thực cuộc đời qua tinh thần quán niệm. Có những lúc cần phải xếp chữ nghĩa, vùi thiên kinh vạn quyển qua một bên để tự chính mính nói cho mình nghe và suy niệm trong vắng lặng. Che mắt đời ra chợ giả ngu!

“Tác phẩm” đầu tiên giúp tôi biết đến Mạc Ngôn là khi lần đầu được xem cuốn phim Hồng Cao Lương (Red Sorghum) ở Century Theater tại Sacramento, một thành phố nhỏ vùng Bắc Mỹ. Đây là cuốn phim dàn dựng theo tác phẩm được đánh giá là tiêu biểu nhất trong số 11 tiểu thuyết của nhà văn Mạc Ngôn. Vì thích cuốn phim, tôi tìm đọc tác phẩm Hồng Cao Lương đã được Howard Goldblatt dịch ra tiếng Anh (Viking Penguin – New York, Penguin, 1994). Tôi tìm gặp một thế giới gần gũi với nông thôn ruộng đồng mà xa lạ như ảo ảnh. Một thế giới bơ phờ, hoang vu đầy những uẩn khúc tình dục, mê muội và bạo động vô nghĩa. Rõ ràng là tác giả muốn nói lên và chống lại một thế lực ám ảnh nặng nề đang đè nặng lên thân phận bèo bọt của con người cùng khổ. Các nhân vật lại hành động như những bóng ma ẩn hiện khi thật khi hư, khi say khi tỉnh. Đây rõ ràng là một thế giới của khuynh hướng “hiện thực ảo giác” (hallucinatory realism). Nó thật hơn cả thật nhưng cũng đầy ảo ảnh hơn cả ma trơi. Người đọc có cảm giác như Mạc Ngôn viết xong dăm câu, vài đoạn thì buông bút đứng cười, nói: “Tui là tui rứa đó. Dẫu bạn có cười hay khóc thì mặc bạn. Tui chỉ cười, có nói chi mô!”

Năm ngoái về thăm quê, tôi tìm được một tác phẩm của Mạc Ngôn với tên gọi rất chi là... hiện thực ảo giác: Ma Chiến Hữu(Trần Trung Hỷ dịch). Tác phẩm nói về cuộc chiến Trung-Việt năm 1979. Lúc đó, Mạc Ngôn là sĩ quan tuyên giáo của binh đoàn, nhưng tác giả lại không hò hét “cầm gươm ôm súng xông tới” mà chỉ nói khơi khơi chuyện người và ma rủ nhau lên những tàng cây uống rượu và nói chuyện lan man nóng lạnh đời thường. Sau lăng kính mạc ngôn– nói không lời; lời mà không nói – ấy, tác giả hướng về tầng lớp giai cấp nghèo khổ, quê mùa. Họ đi cày hay vác súng ra trận cũng như đi đào mương làm thủy lợi trong xã hội Trung Quốc thời nông trường tập thể. Tính nhân bản của một nhà văn có thể nhận ra khi biết trái tim của họ thể hiện trong sáng tạo thật sự hướng tới ai và đứng ở vị thế nào.

Có thể nói Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn đều là hai tài năng văn chương sáng giá. Sáng giá không phải chờ đến khi nhận giải Nobel nhưng bởi sự dấn thân “xiếc đi dây” trong hành trình sáng tạo. Dù rằng một bên đứng ở đỉnh Linh Sơn khoảng khoát tinh thần trong một xã hôi phương Tây đầy bon chen, thực dụng và một bên dùng “mạc ngôn” hư hư thực thực để vật lộn với một xã hội xem giá trị tâm linh và tinh thần là biểu hiện của suy đồi, phù phiếm.

Dư luận phương Tây lao xao tiếng bấc tiếng chì khi giải Nobel văn chương năm nay về tay Mạc Ngôn, một phần vì nhà văn có chân trong đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng dư luận lại ít chú ý câu phát biểu chính thức đầu tiên của Mạc Ngôn ngay sau khi được giải văn chưong Nobel là yêu cầu trả tự do cho Lưu Hiểu Ba, nhân vật được giài Nobel Hòa Bình năm kia đã từng gây phẫn nộ cho giới cầm quyền Trung Quốc. Thái độ phản kháng bất công và áp bức trong phút đầu tiên bước lên đài danh vọng giữa lúc “quan trên ngó xuống, người ta trông vào” quả là sự hành xử thiên chức đáng quý của một nhà văn có bản lĩnh. Muốn cho phải có vật cho. Nhà văn muốn “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” như Nguyễn Công Trứ nói về kẻ sĩ thì phải kiểng chân đứng ở tầm cao trên tác phẩm mới có người nghe tiếng.

Nhìn người lại nghĩ đến ta. Đâu mươi năm trước, từ quê người, tôi nghĩ về viễn ảnh một giải Nobel văn chương sẽ đến với người cầm bút ở quê nhà qua bài viết nay vẫn còn luân lưu trên các trang mạng: “Viễn ảnh về một giải văn chương cho giới văn bút Việt Nam”**.Có người cho là ảo tưởng vì trong điều kiện sáng tác “cái khó bó cái khôn” thì làm sao mà có được. Năm mươi năm trước, chú bé Mạc Nghiệp con nhà nông dân giữa một vùng quê nghèo đói Trung Hoa mà nói đến một chữ bẻ làm đôi cũng còn là ảo tưởng. Nhưng hôm nay, Mạc Nghiệp đã thành Mạc Ngôn.

Trong muôn một và im lặng, một người vô danh đang chúc mừng nhà văn Mạc Ngôn của Trung Quốc đã thành danh. Chúc mừng những nghệ sĩ văn bút Việt Nam đang trên đường sáng tạo.

Sacramento, tháng Mười 2012

Trần Kiêm Đoàn



**http://www.trankiemdoan.net/butluan/vanhoc-nghethuat/nobel4vn.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 19800)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 12185)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8508)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5511)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 18182)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3594)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7158)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 19144)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13483)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4598)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]