Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gió Phương Xa (tường thuật về phái đoàn hoằng pháp tại Chùa Phật Tổ năm 2012)

13/08/201207:54(Xem: 4188)
Gió Phương Xa (tường thuật về phái đoàn hoằng pháp tại Chùa Phật Tổ năm 2012)

GIÓ PHƯƠNG XA

Thích Nữ Huệ Trân

 

          Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!

          Nhưng có một sự việc vẫn đến đều đặn với chùa Phật Tổ, Long Beach, từ nhiều năm nay. Đó là, mỗi năm, trong khoảng thời gian này, Phái đoàn hoằng pháp Châu Âu do Hòa Thượng Thích Như Điển, phương trượng chùa Viên Giác Đức Quốc hướng dẫn, đều ưu ái dừng chân nơi ngôi chùa khiêm nhường tại thành phố Biển Dài, miền Nam California, để ban cho đại chúng hương vị pháp thực đậm đà của một giáo pháp, từng nuôi sống tâm linh chúng sanh gần hai mươi sáu thế kỷ qua.

          Hòa Thượng trưởng đoàn Thích Như Điển bước vào chánh điện trong âm thanh rộn rã của ba hồi chuông trống Bát Nhã. Cùng bước theo ngài là những vị trưởng tử Như lai: TT Thích Nguyên Tạng (phó trụ trì Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Đại Lơi), TT Thích Thông Triết (trụ trì Thiền Viện Chánh Pháp, Oklahoma)), ĐĐ Thích Viên Giác (trụ trì Chùa Đôn Hậu, Na Uy),  ĐĐ Thích Hạnh Bảo (trụ trì Chùa Viên Ý, Rome, Ý Đại Lợi), ĐĐ Thích Hạnh Đức (trụ trì Chùa Phật Ân, Minnesota ), NS Thích nữ Minh Huệ (Sacramento, Bắc Cali Hoa Kỳ). Chỉ thiếu hai vị: ĐĐ Thích Thánh Trí và ĐĐ Thích Hạnh Tuệ còn đang bận Phật sự tại San Diego sẽ có mặt trong buổi giảng ngày mai.

          Hòa Thượng viện chủ chùa Phật Tổ Thích Thiện Long và đại chúng, chào mừng phái đoàn bằng niềm hoan hỷ lớn, bộc lộ từ những trái tim lớn mà tỏa ra hạnh phúc lớn. Không cần chi ngôn ngữ cho nhiều, khi ngôn ngữ cũng chỉ diễn tả giới hạn những cảm xúc vô hạn.

          TT Thích Nguyên Tạng, phó trụ trì tu viện Quảng Đức, Úc Đại Lợi, luôn là phát ngôn viên của phái đoàn. Thượng Tọa cũng là linh hồn của trang nhà Quảng Đức, nơi có sức chứa như một thư viện Phật Giáo tầm vóc, cho những ai cần sưu tầm tài liệu. Thượng Tọa cũng là trưởng đoàn hành hương thăm Phật tích khắp nơi như Ấn Độ, Trung Hoa, Đài Loan …. Dưới sự hướng dẫn của Thượng Tọa thì những chuyến hành hương không phải là du lịch, mà đi để tìm chính mình qua lời Phật dạy. Làm sao mà tâm không trụ nơi thân, khi đứng trước mỗi Phật tích đều có thể vẳng lên âm thanh “Đi khắp đại địa, ghim cây kim xuống đâu cũng đều chạm xương da Như Lai”.

          Trong bài pháp cô đọng mở đầu chương trình pháp thoại tại chùa Phật Tổ, Thượng Tọa giới thiệu 2 tác phẩm “Chết an lạc, tái sinh hoan hỷ” được HT Thích Như Điển và  chính Thương Tọa, dịch từ nguyên bản Anh ngữ “Peaceful Death & Joyful Rebirth” của Đại Sư Tulku Thondrup. Đây là một đề tài mà không ai không muốn tìm hiểu. Tác phẩm thứ hai được giới thiệu đó là “ Chuyện Tình của Hòa Thượng Liên Hoa“ do HT Như Điển phóng tác từ câu chuyện có thật vào thời Vua Gia Long của đầu triều đại nhà Nguyễn.  Hai cuốn sách này đã được nhị vị tác giả, dịch giả ký tặng đại chúng sau lễ khai mạc khóa tu.

 

          Buổi chiều cùng ngày, đại chúng được nghe TT Thích Thông Triết giảng về đề tài “Căn bản của phiền não”. Mở đầu, thầy khảo bài ngay: -37 phẩm trợ đạo là những gì? Ai biết?

           Học trò bị hỏi bất ngờ, sợ hãi nhìn nhau. Nhưng rồi cũng có một vài cánh tay rụt rè giơ lên:

          -Dạ, tứ niệm xứ.

          -Đúng ! Cho bác đây một tràng pháo tay. Gì nữa?

          -Dạ, tứ chánh cần.

          -Đúng luôn ! Cho anh đây một tràng pháo tay. Gì nữa?

          -Dạ, Tứ diệu đế.

          -Lại đúng ! Phật tử chùa Phật Tổ giỏi qua! Đếm xem, được bao nhiêu rồi. Ba lần bốn là mười hai …..

          Hú hồn! Khi thầy đăng tòa, nhìn nhân dáng nghiêm túc, lại bị sát hạch bất ngờ, đại chúng tưởng buổi giảng này sẽ …. “nín thở qua sông!”. Ai dè, thầy “giơ cao, đánh khẽ” khiến trò được ôn lại bao nhiêu bài học quý giá từ 37 phẩm trợ đạo tới 8 tâm vương, 51 tâm sở, để nhận định được đâu là căn bản phiền não đã gây nên biết bao đau khổ.

 

          Buổi giảng sáng thứ sáu 30 tháng 3,2012 do ĐĐ Thích Hạnh Bảo phụ trách. Hôm nay, gió lạnh hơn hôm qua. Có lẽ nhiều Phật tử trễ chuyến xe buýt sớm nên chưa đến kịp. Nhìn quanh đạo tràng, ĐĐ bảo:

          -Thời nay, mọi sự đều chỉ có thể làm vào cuối tuần mới hội tụ đông đủ. Phật sanh ngày nào, cũng cuối tuần mới làm Lễ Phật Đản. Vu lan ngày nào, cũng cuối tuần mới làm Lễ Vu Lan.

          Đó là một thực trạng của tùy thuận phương tiện.

          Thầy chia sẻ những điều bình thường nhưng thực tế, mà nếu ít quan tâm, chúng ta dễ nhầm lẫn. Đó là thực chất vi tế giữa ăn chay và ăn mặn, rồi tới sự từ bi, giữa ái kiến từ bi của chúng sanh và lòng từ bình đẳng của Chư Phật, rồi phụng dưỡng báo hiếu giữa chánh cần và bất chánh cần …

          Thầy xác định là thầy chỉ “nói chuyện đạo” chứ không dám coi là thuyết pháp, vì pháp, theo thầy, mọi người đều tự có.

          Đó là lời khiêm tốn của một vị thầy tự làm mờ “cái ta” để trở thành “cái chúng ta”. Quý thay!

 

hoang phap hoa ky 2012 (1)hoang phap hoa ky 2012 (2)hoang phap hoa ky 2012 (3)hoang phap hoa ky 2012 (4)hoang phap hoa ky 2012 (5)hoang phap hoa ky 2012 (6)hoang phap hoa ky 2012 (7)hoang phap hoa ky 2012 (8)hoang phap hoa ky 2012 (9)hoang phap hoa ky 2012 (10)hoang phap hoa ky 2012 (11)hoang phap hoa ky 2012 (12)hoang phap hoa ky 2012 (13)

          Buổi chiều cùng ngày, đại chúng được diện kiến ĐĐ Thích Viên Giác, chùa Đôn Hậu, Na Uy. Đối với đa số Phật tử miền Nam cali, Hoa Kỳ, thì xứ Na Uy còn là một địa danh khá xa lạ. Vậy mà cũng có bước chân của hậu thân Tăng Đoàn Đức Thế Tôn đến đó từ nhiều thập niên qua.

          Thầy chia sẻ, Na Uy là xứ lạnh, nhưng tình nồng. Những năm đầu, thầy chỉ ăn bánh mì, vì ít có chợ nào bán gạo, nói chi tới những đặc sản quê hương. Chính nơi xứ lạ, ít đồng hương đó, thầy đã có những cơ hội quý báu, giới thiệu với dân bản xứ về những nét đặc thù của Đạo Phật.

Khi thầy nói về hạnh khất thực, họ rất cảm động và ngưỡng phục. Một Đức Phật được người người tôn quý, dẫn đoàn tỳ kheo đầu trần, chân đất, lặng lẽ ôm bát đứng trước mỗi ngưỡng cửa, chờ bố thí chút thực phẩm. Hành động đó, hình ảnh đó, nào phải là nghèo đói xin ăn, mà là trải rộng lòng từ bi, tạo dịp cho chúng sanh biết bỏ chấp ngã và biết bố thí.

          Chính sự cảm ứng kỳ diệu từ những bài pháp đơn sơ ban đầu này mà thầy tự tin, khởi xây chùa Đôn Hậu để có nơi cho Phật tử nương tựa. Khi mới khởi công, thầy có chút lo lắng, nhưng thầy được Sư Phụ trấn an rằng:

          -Đừng lo! Thầy cứ tụng kinh, gõ mõ, tiền sẽ từ mõ mà ra.

          Quả thật, từ viên gạch đầu bằng gia tài thầy trò có bảy ngàn đô, những viên gạch khác cứ từ nơi này, nơi kia lăn tới. Gạch lăn tới đâu, xây tới đó. Long Thần Hộ Pháp gia trì thế nào, nhận thế nấy. Nay, ngôi chùa Đôn Hậu đã hoàn tất qua dự án hai triệu đô.

          Khi chia sẻ điều này, thầy muốn nhắn gửi một thông điệp, là người Phật tử phải có niềm tin nơi Tam Bảo. Cùng với tự lực và tha lực nơi hộ pháp, chúng ta có thể thành tựu những điều xứng đáng.

          Trước khi xuất gia, ĐĐ Thích Viên Giác là nhạc sỹ Phi Long, nên thầy kết thúc buổi giảng pháp bằng bản nhạc “Xuân Trong Ta” do chính thầy sáng tác.

 

          Sáng thứ bảy 31 tháng 3, 2012, đại chúng chùa Phật Tổ có thời khóa tu Tịnh nghiệp thường lệ với tụng kinh A Di Đà, kinh hành, niệm Phật. Sau đó, chuông trống bát Nhã đã rộn rã ngân lên đón tiếp Ni Sư Minh Huệ, vị tỳ-kheo-ni duy nhất trong phái đoàn hoằng pháp Châu Âu từ bấy lâu nay.

          Khi giới thiệu Ni Sư, HT viện chủ chùa Phật Tổ đã nhắc lại một điểm quan trọng khi xưa, là Đức Phật đã nhận thấy, trí tuệ không phân biệt nam nữ. Những gì vị tỳ-kheo làm được thì vị tỳ-kheo-ni cũng có thể làm được (NS đã đậu bằng Tiến Sỹ Phật Học bên Ấn Độ với đề tài luận án là Kinh Trung Bộ)

          Hôm nay, NS giảng về Vô Thường.

          Thời gian qua nhanh, vô thường lại không biết ập tới lúc nào! Chúng sanh thì luôn bị ngũ dục lôi cuốn khiến quên đi mỗi phút giây qua, mỗi đến gần sự chết! không tu tập, không tạo phước, không mở mang trí tuệ, lấy đâu hành trang thiện lành khi ra đi, để tới được thế giới an lạc.

          Tiếc thay, chúng ta thường biết trên Lý, mà Sự lại chẳng chịu hành, nên khi vô thường tới, có chợt ngộ ra cũng đã muộn.

          Ni Sư đan cử vị Đại Đế lừng danh bách chiến bách thắng, Alexander của Pháp Quốc, sau khi chinh phạt, trên đường ca khúc khải hoàn trở về quê hương, ông bỗng lâm bệnh nặng vì quá lạm dụng sức mình khi bôn ba chiến trận. Tự biết khó qua khỏi, ông gọi cận thần, dặn dò 3 điều:

          1-Suốt dọc đường về quê, các lương y phải khiêng xác ông, chứ không được bỏ vào quan tài.

          2-Rải hết vàng bạc châu báu của ông trên suốt chặng đường đi.

          3-Về đến quê hương, khi làm lễ an táng, bỏ xác vào quan tài, nhưng phải để lộ hai bàn tay ra ngoài.

          Trong đại chúng, nhiều người chưa biết về giai thoại này, nên lấy làm lạ, đều chăm chú lắng nghe. Ni sư chậm rãi, giải thích thông điệp của đại đế Alexander nhắn với thế gian, ở từng điểm:

          Thứ nhất, các danh y phải khiêng xác ông suốt dọc đường về quê là để nói lên, cái chết chắc chắn sẽ bình đẳng đến với tất cả mọi người, không quyền uy, danh y nào có thể cứu được.

          Thứ hai, rải hết của cải ông có trên suốt dọc đường để nói rằng, giầu sang quyền quý tới đâu, khi chết cũng không mang được gì.

          Thứ ba, an táng với hai bàn tay trơ trụi, lộ ra ngoài để nói rằng, khi vào đời với hai bàn tay trắng thì lúc ra đi cũng chỉ là trắng đôi tay!

          Ở những ngày cuối đời, kịp nhận ra lẽ vô thường như vậy, may ra sẽ giúp ông ra đi thanh thản.

          Quyền lực, tiền tài, danh vọng đến như Đại Đế, khi vô thường tới, còn như vậy. Nếu so ra, chúng ta thật chẳng là gì, vậy khi ra đi, có gì mà tiếc nuối!

          Như để làm nhẹ bớt “bóng ma vô thường”, ni-sư cất tiếng trong thanh, hát một bài, tặng đại chúng trước khi chấm dứt thời pháp.Hạnh phúc thay!

 

          Buổi sáng cùng ngày, ĐĐ Hạnh Tuệ ban pháp với chủ đề “Hộ niệm là một pháp tu”. HT viện chủ chùa Phật Tổ ân cần giới thiệu với đại chúng, đây là vị thầy trẻ, trí tuệ uyên thâm, đã tốt nghiệp cử nhân Phật Học.,(Ngồi sau nhà Tổ, Huệ Trân muốn chạy ra thưa thêm rằng, thầy còn là một “Ông Đồ” với những nét thư pháp như phượng múa rồng bay. Quý Phật tử đi dự Đại Lễ Phật Đản năm nay, sẽ được chứng kiến và có dịp “đặt hàng” với thầy)

          Thầy nhận định một điều, nghe qua, khá mới mẻ, nhưng ngẫm ra thì, giáo pháp Như Lai đồng một vị mà thôi. Thầy nói, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, hộ niệm cũng là một pháp tu chân chính. Vì sao? Vì khi đi hộ niệm, tâm ta đã sẵn sàng thành khẩn, trí ta đã sẵn sàng thanh khiết, tuệ ta đã sẵn sàng tỏ ngời, mới mong có thể đủ năng lượng từ bi, trí tuệ, chiêu cảm cùng Chư Phật mà chuyển đạt những lời cầu nguyện thành hiện thực. Pháp tu nào mà không cần những điều kiện tín, hạnh, nguyện như thế!

          Thầy ví Từ Bi như đất. Đất ôm ấp, dưỡng nuôi mọi hạt mầm để đủ duyên sẽ nở hoa kết trái, làm đẹp cho đời.

          Một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh cũng vậy, đó là không gian an lạc, trong lành để bồi dưỡng tín tâm cho những ai đang “đốt đuốc mà đi” trên đường Trung Đạo.

          Trước khi chấm dứt thời pháp, thầy dựa theo bản nhạc “Đưa em vào hạ”, mà đổi thành “Đưa mẹ thăm chùa” để hát tặng đại chúng.

          (Vẫn ngồi sau nhà Tổ, vừa làm việc, vừa nghe pháp, Huệ Trân thầm nghĩ, muốn theo cung cách thân mật, thoải mái này, chắc các sư huynh của mình cũng nên dợt vài bài tủ, để khi có dịp chia sẻ ở đâu thì cũng kết thúc bằng lời ca tiếng hát cho vui vẻ cả làng! Mới khởi nghĩ thế, đã liên tưởng ngay, huynh Thường Giới, có thể sẽ gật gù, mỉm cười, huynh Thường Tín sẽ chắp tay “A Di Đà Phật”, còn huynh Thường Chơn thì trăm phần trăm sẽ là “không dám đâu!”)

 

          Buổi chiều cùng ngày là đề tài mà không một ai không mong đạt tới. Đó là đề tài “Giải thoát khổ đau” do ĐĐ Thích Hạnh Đức chia sẻ.

          Đại Đức còn rất trẻ mà giảng về một đề tài cam go, nên trong tương phản, cái đẹp tất hiển lộ. Như hoa sen thơm ngát giữa ao bùn.

          ĐĐ nhắc 8 chữ, mà có lẽ không Phật tử nào không từng biết. Đó là: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

          Trong tứ đế này, khổ đau chính là khổ đế, đứng đầu.

          Mà khổ đau có thực là khổ đau? Nếu không quán chiếu kỹ, có khi, khổ đau của người này lại là hạnh phúc của người kia. Tỷ như, người mắc bệnh cùi, hơ thân vào lửa, rồi gãi, đó là hạnh phúc. Nhưng người không mắc bệnh này mà bắt hơ lửa, rồi gãi, có lẽ không gì khổ hơn!

          Vậy, là người tu Đạo Trí Tuệ, Giác ngộ, phải nhận diện, đâu là hạnh phúc tạm bợ, sẽ dẫn tới khổ đau, thì điều đó, chắc chắn không phải là hạnh phúc.

          Nếu ta thường xuyên quán xét về tích-lũy-nghiệp và tập-quán-nghiệp, ta sẽ có nhiều cơ may tạo thêm nghiệp lành và xả bớt những tập quán không tốt.

          Thầy ân cần nhắc nhở các Phật tử đạo tràng Tịnh Độ, chùa Phật Tổ, là phải hành trì đủ Tín, Nguyện, Hành, thì Đức Phật A Di Đà mới tiếp độ được. “A” nghĩa là Vô, là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức. Chúng ta niệm A Di Đà Phật là để thể nhập vào thế giới Vô Lượng của ngài; chớ như kẻ bơi ngoài biển khơi, tuy biết cách bơi mà không biết sẽ bơi về đâu thì cứ mãi lênh đênh sóng nước. Phải muốn vào đất liền, mới về đất liền, phải nguyện về cõi Phật, mới về với Phật.

                   Sáng Chủ Nhật 1 tháng 4, 2012, sau thời khóa tu Tịnh Nghiệp thường xuyên của đạo tràng, là thời pháp cuối cùng của phái đoàn hoằng pháp Châu Âu, dành cho chùa Phật Tổ. Thời pháp cuối này, do chính Hòa Thượng Thích Như Điển, trưởng phái đoàn chia sẻ. Ngài là bậc trí tuệ, thông thạo nhiều ngoại ngữ nên việc hoằng pháp năm châu bốn biển đều hanh thông, dễ dàng.

Hòa Thượng bảo, tưởng không có chỗ đậu xe, vì trong ngoài đều chật kín. HT cảm thấy rất ấm lòng, là Phật pháp nơi đây đang hưng thịnh.

Thời pháp hôm nay, HT sẽ nói về thân trung ấm và việc đi đầu thai.

Là con Phật, chúng ta đều tin ở nhân quả. Những gì ta gieo đời này, khi ra đi, tự động nương theo nghiệp đó, không ai hứng chịu thế cho ai được. Mọi hành động, mọi ý nghĩ nào khởi lên, đều là những chủng tử gieo vào tâm thức, chờ đủ duyên sẽ nảy hạt, đâm chồi. Chúng không tự biến đi, nhưng chúng có thể bị chuyển hóa. Thí dụ, mười hạt bắp và một hạt lúa cùng gieo xuống vuông đất nhỏ, những hạt bắp kia sẽ lấn hạt lúa. Hai mươi hạt bắp cùng xuống đất với một hạt lúa thì cơ may cho hạt lúa nảy mầm lại ít hơn.

Suy như thế, nếu ta thường xuyên quan tâm, tạo thêm thiện nghiệp, xả bớt ác nghiệp thì giây phút ra đi, thân trung ấm sẽ theo hướng thiện mà đầu thai vào chốn lành. Ngược lại, khi ấy, nếu tâm thức ta ác nhiều, thiện ít, tất, ta sẽ theo hướng ác mà đi!

Là con Phật, chúng ta được Đức Phật xác quyết “Là Phật sẽ thành”, nhưng chớ quên, thành ở đây, không phải đương nhiên thành, mà thành hay bại còn do chúng ta biết phản quang tự kỷ, chuyên tâm tinh tấn tu hành để đạt tới hạnh phúc rốt ráo là ra khỏi sanh tử luôn hồi.

Hòa Thương cô đọng thời pháp qua lời dặn:

-Kinh A Di Đà thuộc về Hóa sanh. Quý Phật tử nơi đây tu Tịnh Độ, chỉ cần nhớ kinh A Di Đà bằng 2 chữ Hóa Sanh, sẽ được Phật A Di Đà hóa sanh, cho về nước Ngài. Bổ túc thêm Kinh Vô Lượng Thọ, chỉ cần nhớ 3 chữ: Bổn Nguyện Lực.

Hiểu tường tận 5 chữ đó, là đường đi sẽ tới.

 

Được biết, năm nay là năm cuối, phái đoàn đến Hoa Kỳ hoằng pháp. Những năm tới, đoàn hành giả trưởng Tử Như Lai vẫn kiên cường, dõng mãnh cất bước, nhưng sẽ là những châu khác, hướng khác, đó là Âu Châu, rồi Úc Châu, nơi bao người con Phật khát pháp mong chờ.

Dẫu biết thế, chúng con vẫn không khỏi bùi ngùi, luyến tiếc lúc chia tay.

Ngưỡng nguyện hồng ân Chư Phật mười phương luôn gia hộ quý ngài được pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, cho đàn hậu học chúng con có nơi nương tựa.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật

Nam Mô Công Đức lâm Bồ Tát Ma ha tát

  Biển dài, 4/4/2012
Thích Nữ Huệ Trân

***

Kính mời xem bài tường thuật khác

https://quangduc.com/a829/mot-ngay-mua-phap







 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3085)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1428)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 755)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 730)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 928)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1327)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 930)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9059)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 732)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1601)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]